Friday, April 22, 2011

Lời nguyện cầu của buổi chiều Thứ Sáu


Lạy Chúa,
khóc mỗi khi tưởng niệm cuộc thương khó của Ngài,
đó là điều hằng năm con đã,
nhưng khóc để mà nói thì chưa đủ,
nhưng cần phải gạt nước mắt mà ngước nhìn lên.
Thiên Chúa phục sinh đang đợi phía trước,
Ngài đã vượt qua dòng nước mắt nhân loại về đến bến bờ vinh quang.


Không hiểu tại sao,
con cứ mải bơi trong bể nước mắt đời mình,
mãi vẫn không tìm ra được bến bờ hạnh phúc.


Xin gọi tên con,
lau khô giọt lệ còn dang dở,
cho con niềm vui bất diệt vì sự chiến thắng khải hoàn.


Tự bản thân,
con cứ mãi đánh mất sự sống phục sinh,
hỏi sao đủ sức gánh đỡ thập giá.


Tha thứ cho con,
niềm tin mong manh dễ vỡ.
Cho con bình an phục sinh đích thực,
mỉm cười trước lũ đời trái ngang…


M. Hoàng Thị Thùy Trang

Wednesday, April 20, 2011

TIỆC LY - LỜI TÂM HUYẾT


Một phóng viên báo chí người Anh bị cầm tù trong những tháng năm cách mạng văn hoá của thời Mao Trạch Đông. Lúc được trả tự do, ông viết một bài báo với nhan đề: “Thiên Chúa Giáng Sinh” của linh mục Char, câu chuyện được kể lại thật cảm động như sau:

Tôi bị giam ở trong một trại giam bên Trung Quốc. Trong trại có một linh mục cùng bị giam tên là Char, 40 tuổi, người Trung Quốc và là linh mục dòng Sitô. Ở trong tù, tôi phải ăn uống cực khổ, chịu kỷ luật khắt khe và công tác lao động lại nặng nề. Chúng tôi phải đào đất và gánh những gánh thật nặng lên đổ trên một ngọn đồi cao. Linh mục Char luôn nêu gương bác ái. Ngài không phải là con người có sức lực lưỡng, nhưng ai mệt thì được ngài gánh giúp, ai nặng gánh không nổi thì được ngài đổi gánh cho nhẹ hơn của mình. Ngài luôn luôn vui vẻ khích lệ anh em, trong trại ai ai cũng mến phục.

Tôi là người Công giáo, nhưng suốt bao tháng năm tôi chẳng sống đạo tí nào. Và điều làm cho tôi thắc mắc là tại sao cha Char lại biết tôi là người Công giáo? Vì một hôm giữa trời đông rét, vào giờ giải lao, ngài cầm tay kéo tôi đi theo và hỏi: “Anh là người Công giáo phải không?” Tôi trả lời “Thưa cha phải!” Linh mục hỏi tiếp: “Hôm nay là ngày lễ gì anh có biết không?” Tôi trả lời: “Thưa cha, tôi không biết”. Linh mục nói tiếp: “Hôm nay là ngày lễ Giáng Sinh”.

Vị linh mục trầm lặng và hỏi nhỏ tôi một câu: Chắc anh nhớ gia đình lắm phải không? Thôi đi theo tôi, chúng ta cùng nhau xuống hố đất kia, tôi cùng anh dâng Thánh lễ.” Tôi cảm thấy có một sức mạnh nào đó nơi cha thu hút tôi, khiến chân tôi phải bước đi và cả hai chúng tôi xuống hố sâu. Chung quanh miệng hố, đất đào nhô lên được đắp thành hai cái mô vững chắc. Tôi chẳng hiểu làm sao ngài lại có một ve rượu nhỏ, và đựng trong một cái bát nhỏ và một mẩu bánh lễ. Ngài để cả hai trên một mô đất nhỏ trước mặt, rồi giang tay cầu nguyện. Lúc đưa Mình Thánh lên, mặt ngài sáng ngời. Tôi chăm chú nhìn rồi tự nhiên đầu gối quì xuống. Tôi ăn năm sám hối, và ngài cho tôi rước lễ, mắt tôi nhoà lệ và lòng tôi cũng như lòng ngài ấm áp hẳn lên.

Sau đó, chúng tôi vội vàng trở về chỗ cũ. Một tên lính gác nhìn thấy chúng tôi liền chạy lại ngay, tóm cổ linh mục và hỏi: “Mày đi đâu đàng kia?” Ngài thẳng thắn trả lời: “Hôm nay là ngày lễ trọng của chúng tôi. Giờ giải lao, tôi đi cầu nguyện”. Tên lính nổi giận đánh cho ngài một trận chí tử, ngài lặng thinh chịu đựng. Hắn dẫn ngài đi từ đó, tôi không còn gặp ngài được nữa. Nhưng suốt đời tôi không bao giờ quên được cảnh tượng chiều hôm tiệc ly thánh thiện đó”. Chưa bao giờ trong đời tôi đã tham dự và dâng lễ Giáng Sinh một cách sốt sắng như hôm ấy. Lễ Giáng Sinh hôm đó đã biến đổi cả cuộc đời của tôi và đức tin đã sống lại nơi tôi.

*********

Bí tích Thánh Thể là đích điểm của con đường đức tin. Chúa Giêsu Kitô đã mở đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng với lời kêu gọi: “Thời giờ đã đến, Nước Trời đang gần bên. Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng”. Rồi cuối cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể với các môn đệ. Ngài căn dặn: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.

Những chặng đường canh tân đã trải qua, và như vậy thì Mùa Chay này phải hướng dẫn chúng ta đến với việc cử hành bí tích Tình Yêu một cách tốt đẹp nhất, để được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô và sống lại với Ngài trong ánh sáng Phục Sinh khải hoàn.

Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” căn dặn: cả gia đình Chúa Giêsu hướng về núi Calvariô, cả gia đình con hướng về Thánh lễ. Con muốn nhân danh Chúa ư? Hãy tham dự Thánh lễ. Con muốn cảm tạ Chúa ư? Hãy tham dự Thánh lễ. Con muốn cứu nhân loại ư? Hãy tham dự Thánh lễ. Chúa Giêsu đã làm như vậy. Đèn không sáng, nếu hết dầu. Xe không chạy, nếu hết xăng. Hồn tông đồ sẽ suy mạt, nếu không đến với Thánh lễ: “Ai không ăn Thịt và uống Máu Ta thì sẽ không có sự sống đời đời.”

Mọi người tin nhận Chúa đều được mời gọi đến tham dự và cùng dâng Thánh lễ. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng, người đồ đệ phản Thầy là Giuđa đã bỏ phòng tiệc ra đi trước khi Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể.

“Chúng con đã sửa soạn cho Thầy ăn mừng lễ Vượt Qua ở đâu?” Là những kẻ yêu mến Chúa Giêsu thật lòng, thì không thể nào mà không bắt chước gương của các tông đồ hăng say góp phần của mình để Chúa có được chỗ mừng lễ Vượt Qua. Việc cử hành hy lễ Thánh Thể là thực hiện trọn vẹn công cuộc cứu rỗi nhân loại. Giuđa kẻ phản bội cũng ngồi vào bàn dự tiệc rồi ra đi phản bội Thầy mình, mặc dù đã có lời cảnh tỉnh của Chúa.

*****

Lạy Chúa, mặc dù đã nhiều lần con được hiệp dâng Thánh lễ, được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa làm của ăn nuôi dưỡng đời sống đức tin, nhưng con luôn ý thức về thân phận mỏng dòn của mình là có thể phản bội Chúa bất cứ lúc nào. Vậy xin Chúa thương gìn giữ con trong tình yêu thương hải hà của Chúa. Amen!


Radio Veritas

Sunday, April 17, 2011

40. Phục sinh - Sức mạnh của suy nghĩ tích cực hay Quyền năng của Thiên Chúa?




Trong tất cả các truyền thống tôn giáo, các tác giả cổ điển đều nói có một huyền bí trong sự thăng tiến, ấy là, đến một lúc nào đó, chúng ta phải để các ân sủng tự hành động. Nó không có nghĩa là chúng ta ngừng mọi cố gắng, nhưng chúng ta cần để các nổ lực của mình được lớn lên bởi một cái gì đó vượt trên chúng ta.

Etty Hillesum giải thích trong quyển nhật ký của bà: Tôi không cần phải lắp ráp đời mình thêm nữa vì có một tiến trình cơ cấu đang làm việc trong tôi. Có một điều gì đó đang lớn lên, và mỗi lần tôi nhìn mình, là mỗi lần tôi thấy có một cái gì tươi mới xảy ra, và tất cả những gì tôi phải làm là chấp nhận nó.
Đây có phải là những gì chúng ta gọi là phục sinh?

Đối với nhiều người phục sinh là một ẩn dụ, là niềm tin gần giống như huyền thoại Phượng hoàng: Chết không phải là hết và, nếu chúng ta làm điều đúng, chúng ta có thể sống lại từ tro bụi của mình.

Cái gì cho chúng ta sức mạnh để có thể sống lại từ tro bụi của mình? Đó là sức mạnh ý chí và suy nghĩ tích cực. Theo ý tưởng này nếu bạn suy nghĩ tích cực, điều tốt sẽ xảy đến với bạn. Nếu bạn đặt niềm tin mạnh mẽ vào điều gì đó, nó sẽ trở thành hiện thực. Nếu bạn luôn ấp ủ điều tốt, điều tốt sẽ đến với bạn. Đức tin, hy vọng, và suy nghĩ tích cực làm cho điều tốt xảy ra và tái sinh cuộc sống từ nhiều cái chết.

Đây là nền tảng cho nhiều triết lý tu thân và nhiều nhóm tôn giáo. Họ xây dựng nền tảng của họ dựa trên sức mạnh của tinh thần con người hơn là sức mạnh của các ân sủng siêu nhiên. Theo họ, phục sinh là truyền thuyết Phượng Hoàng, được nâng lên một chút bởi ngôn ngữ tâm lý và tôn giáo.

Có một vài chiều sâu và sự thật trong đó. Trong các ý tưởng này có ý tưởng phục sinh là suy nghĩ tích cực và tin rằng năng lượng tích cực sẽ làm cho những điều tốt sẽ xảy ra, cũng như loại suy nghĩ tự chuốc thất bại hay tự mãn. Suy nghĩ tích cực tạo ra năng lượng tích cực và năng lượng này có thể mang sự sống ra khỏi bụi tro. Nó cũng đúng với thể lý. Đôi khi có một loại bệnh lý nặng nào đó mà thái độ tích cực cũng quan trọng cho sự chữa trị như gặp được thuốc men thích hợp. Đó không phải chỉ là suy nghĩ mơ ước; thái độ đúng đắn làm cho năng lượng thể lý, cảm xúc và thiêng liêng đến với thế gian và vào thể xác con người.

Đối với nhiều người, đó chính ý nghĩa của phục sinh, là ẩn dụ về sự chuyển hóa mà năng lượng tích cực có thể đem đến cho thế gian...

Tuy nhiên nó còn hơn thế. Phục sinh không chỉ nói đến tiềm năng của năng lượng tích cực trong chúng ta, nó cũng là, và đặc biệt, nói đến sức mạnh của Thiên Chúa, một năng lượng huyền diệu, có thể làm những gì chúng ta không thể làm cho chính mình, một năng lượng có thể làm những gì mà về mặt bản chất, chúng ta không thể làm được. Phục sinh là sức mạnh từ thế giới bên kia đi vào thế gian và cuộc sống của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể hiểu được điều này?

Nhà thần học và triết gia Paul Tillich phân biệt các thuật ngữ: Tôn giáo giả (Pseudo-religion), Tôn giáo từa tựa (Quasi-religion), và Tôn giáo đích thật (Real-religion.)

Tôn giáo giả là khi chúng ta sử dụng ngôn ngữ tôn giáo (Thiên Chúa, mạc khải, ân sủng, phục sinh) nhưng trong bản chất, những từ ngữ này lại ám chỉ đến những gì cao nhất trong ý thức mỗi người. Và, trong cái tốt nhất của nó, nó có thể làm cho chúng ta trưởng thành, có lòng vị tha; còn trong cái xấu nhất của nó, nó làm cho chúng ta tự mê dụ chính mình và tự cao tự đại. Rốt cùng thì, trong cả hai trường hợp, chúng ta đều đang làm cho ý thức tái sinh; sức mạnh ý chí và suy nghĩ tích cực đóng vai trò then chốt trong bất cứ sự trưởng thành và chuyển hóa nào.

Ngược lại, tôn giáo từa tựa không sử dụng ngôn ngữ tôn giáo, thay vào đó họ sử dụng ngôn ngữ phân tích xã hội, tâm lý, triết lý, kinh tế, và nhân loại học. Những gì nó kêu gọi chúng ta không phải là những gì cao nhất trong ý thức mỗi người, nhưng là những gì cao nhất trong ý thức tập thể. Cũng như tôn giáo đích thật, nó kêu gọi chúng ta vượt lên bản thân mình để đến nhân vị siêu việt. Tôn giáo từa tựa, những biểu hiện tốt nhất của nó nằm trong các hệ tư tưởng chính trị và xã hội (chủ nghĩa Mác-xít, Hòa Bình Xanh, các tổ chức Phi chính phủ, Công bình xã hội), cũng như Tôn giáo đích thật, nó kêu gọi chúng ta vượt lên bản thân mình, nhưng không giống như  Tôn giáo đích thật, rốt cùng nó không mang lại bầu khí siêu nghiệm cho cuộc sống. Nó vẫn chỉ chạm ở những gì cao nhất trong mỗi chúng ta; sức mạnh ý chí và suy nghĩ tích cực vẫn là sức mạnh chủ đạo thật sự đằng sau bất cứ chuyển hóa nào trong thế gian hoặc bên trong bản thân mình.

Tôn giáo đích thật có thể sử dụng hay không sử dụng ngôn ngữ tôn giáo cổ điển, nhưng, trong cả hai trường hợp, những gì nó mở ra cho chúng ta không chỉ là những gì cao nhất trong bản thân mình và những gì chúng ta có thể đạt được qua sức mạnh ý chí và suy nghĩ tích cực. Nhưng còn hơn thế, nó mở ra cho chúng ta một sức mạnh và ân sủng vượt lên bản thân mình. Nó không phải chỉ làm tái sinh bầu khí trong vũ trụ; nó mang bầu khí siêu nghiệm, thiêng liêng từ thế giới bên kia đến.

Phục sinh có một chỗ cho suy nghĩ tích cực và nó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sức mạnh ý chí tương hợp. Nhưng nó còn nhiều hơn thế. Rốt cùng, nó là sức mạnh thượng siêu việt của Thiên Chúa mở tung ra trong thiên nhiên và trong cuộc sống chúng ta, làm cho chúng ta những gì chúng ta không thể làm bằng sức mạnh ý chí và suy nghĩ tích cực. Phục sinh là một sức mạnh có thể giúp chúng ta xếp đặt lại các yếu tố ở trong thể xác, trong các cảm xúc đau đớn, trong thế giới phân chia của chúng ta để nâng chúng ta lên một đời sống mới từ bụi tro.


Fr. Ron  Rolheiser, OMI
(The Resurrection - The Power of Positive Thinking or the Power of God?, 2007)

Saturday, April 16, 2011

39. Niềm vinh quang khác


Ai cũng mang trong lòng một giấc mơ thầm kín được vinh quang. Chúng ta mơ một cách nào đó chúng ta sẽ nổi bật và được công nhận. Vì thế chúng ta mơ tưởng những thành tựu vĩ đại làm chúng ta vượt xa người khác và trở nên nổi tiếng. Các giấc mơ này có thể thay đổi, nhưng luôn luôn trong các giấc mơ đó, chúng ta là tâm điểm – người được ngưỡng mộ nhất trong một căn phòng, cầu thủ ghi bàn thắng quyết định, nữ ngôi sao vũ nhạc, nam diễn viên nhận giải thưởng nghệ thuật, văn sĩ các sách bán chạy nhất, nhà trí thức đoạt giải Nobel, hoặc thậm chí chỉ là người kể chuyện hay nhất trong một nhóm.

Những gì chúng ta theo đuổi trong các chuyện này đều là sự chú ý, sự khâm phục, độc đáo, sự khen thưởng để chúng ta thật sự được công nhận và được mến mộ. Chúng ta muốn ánh sáng luôn luôn chiếu tỏa trên chúng ta.

Điều này không phải là xấu hay không lành mạnh. Chúng ta được dựng lên để đứng nổi bật giữa đám đông. Thực tế này về chúng ta là vô cùng thật (đôi khi tới mức không chịu nỗi) và các nhà khoa học ngày nay nói rằng vũ trụ không có tâm điểm duy nhất mà mọi nơi, mọi cá nhân đều là tâm điểm của nó. Và vì thế không có gì là bí mật khi mỗi người chúng ta ai cũng cảm thấy mình là tâm điểm và muốn được công nhận mình là tâm điểm. Chúng ta nuôi một giấc mơ thầm kín sẽ được vẻ vang, và, trong một chừng mực nào đó, điều này lành mạnh.

Những gì kém lành mạnh là cách chúng ta mường tượng vinh quang trong giấc mơ của mình. Trong hoang tưởng của chúng ta, vinh quang hầu như luôn luôn đọng lại ở sự nổi tiếng, nổi bật, thành công, những cái làm người khác thèm muốn, bằng cách này hay cách khác đều muốn nổi bật nhất, rạng rỡ nhất, tài năng nhất. Trong tưởng tượng của chúng ta, vinh quang có nghĩa là có sức mạnh tự thúc đẩy mình trong những phương diện nào đó để vượt lên trên người khác, dù là phục vụ cho một động cơ tốt. Chẳng hạn một vài tưởng tượng loại này của chúng ta là mơ về lòng tốt, có sức mạnh đẩy lùi cái xấu. Quả thật đây là hoang tưởng muốn cứu nhân độ thế. Trước khi chúa Giê-su giáng thế, các người thiện tâm, các người có lòng tin đều cầu mong một đấng Cứu Thế xuất hiện, trong trí tưởng tượng của họ, đấng Cứu Thế là người luôn có khuôn mặt sáng ngời như sao, người có trái tim vô cùng cao cả và sức mạnh cơ bắp vô địch, người sẽ thay mặt Thiên Chúa toàn năng trị những lực lượng xấu xa.

Nhưng như chúng ta thấy trong Phúc Âm, vinh quang thật sự không chứa đựng bất cứ hành động chiến thắng kẻ xấu hay đánh bại bất cứ người nào. Khi Đức Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, dân chúng và quân lính đều chế nhạo và buông lời thách thức Người làm phép lạ để cứu mình và cứu cả hai tội phạm cùng bị đóng đinh: “Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy chứng tỏ đều đó, hãy xuống khỏi thập giá và cứu lấy mình đi!”

Tuy nhiên, phảng phất trong Phúc Âm một bài học khác mà chúng ta rất dễ bỏ qua: Trên thập giá, Đức Giê-su chứng tỏ sức mạnh của Người rất xa với những gì có thể đo đếm được, không phải bằng việc làm phép lạ về mặt vật chất để chứng tỏ mình là Thiên Chúa và để trừng phạt những kẻ nhạo báng và đóng đinh mình, nhưng bằng phép lạ của quả tim, Người đã tha thứ cho họ. Quyền năng cao cả nhất là ở lòng tha thứ chứ không phải ở vũ lực.

Đó là vinh quang thật sự, và đó là điều duy nhất chúng ta thật sự nên ước muốn. Đó chính là lòng trắc ẩn, tha thứ mà Đức Giê-su đã biểu lộ khi đối diện với ghen ghét, căm hờn và những kẻ muốn giết mình.

Chúng ta thấy được điều này trong Phúc Âm, vào một ngày kia thánh Gia-cô-bê và thánh Gio-an đến xin Đức Giê-su để được hưởng vinh quang bên Người. Người nghiêm túc ghi nhận lời cầu xin và hỏi họ: “Các con có thể uống chén đắng mà ta phải uống không?” Một cách chất phác họ trả lời: “Chúng con có thể!” Đức Giê-su đáp: “Chén ta sẽ uống rồi các con sẽ uống, nhưng chiếc ghế vinh quang ở bên trái hay bên phải, cái đó không thuộc quyền ta cho các con.”

Những gì Đức Giê-su nói có nghĩa: Bạn sẽ nếm đau khổ, mỗi người sẽ nếm, và đau khổ này sẽ khiến bạn thêm sâu sắc. Tuy nhiên, không nhất thiết nó sẽ làm cho bạn sâu sắc một cách đúng đắn. Đau khổ có thể làm cho bạn đi sâu vào tình thương, trắc ẩn, tha thứ, nhưng nó cũng có thể làm cho bạn chìm trong cay đắng và giận dữ. Tuy vậy, chỉ có lòng trắc ẩn và tha thứ mới mang lại cho cuộc đời bạn vinh quang thật sự.

Định nghĩa về vinh quang của Đức Giê-su rất khác với định nghĩa của chúng ta. Vinh quang thật sự đối với Người không phải là vinh quang của huy chương vàng, của nhà vô địch, đoạt giải Oscar, hoặc sở hữu những thứ khiến người khác ganh tị. Vinh quang cốt ở chỗ thấm sâu vào lòng trắc ẩn, tha thứ, từ bi và những điều này thường không được sinh ra từ các thành công trần thế, các việc làm cho rạng rỡ hơn, thu hút hơn, giàu có hơn, sức mạnh cơ bắp hơn những người xung quanh.

Tất cả chúng ta đều nuôi giấc mơ vinh quang. Một phần nào đó, điều này lành mạnh, dấu hiệu cho thấy chúng ta có cảm xúc bình thường. Tuy nhiên, điều này cần được lớn lên và trưởng thành bên trong chúng ta. Giấc mơ vinh quang thầm kín có nghĩa là trưởng thành để cuối cùng chúng ta sẽ bắt đầu và càng ngày càng nhận ra rằng chúng ta nổi bật không phải bằng tài năng, bằng vẻ bên ngoài, bằng cơ bắp và sự thành công, mà ở chính chiều sâu của lòng trắc ẩn và phẩm cách tha thứ của chúng ta.


Fr. Ron Rolheiser, OMI
(Different Kinds of Glory, 2007)

Friday, April 15, 2011

38. Nỗi thống khổ trong Vườn Giết-xê-ma-ni – Vườn Chuyển Hóa



“Đem điều thiện đến cho điều ác, đó là cách duy nhất để chấm dứt điều ác.” Câu nói khó hiểu của Leo Tolstoy có thể xem như chìa khóa để hiểu tấn kịch thật sự Đức Giêsu phải chịu trong vườn Giết-xê-ma-ni.

Mồ hôi máu Người đổ ra không phải chỉ là máu của người yêu, là nỗi đau ám ảnh của một tình yêu khó nắm bắt, nỗi đau cay đắng của một tình yêu chua chát, hay nỗi đau dày xéo phải quên đi tình cảm lãng mạn để giữ lòng chung thủy. Đức Giêsu đã trải qua những điều này trong vườn Giết-xê-ma-ni, nhưng ở đây còn có ý nghĩa khác hơn thế. Người đã phải đổ mồ hôi máu của người yêu, quyết tâm chịu đựng căng thẳng trong cộng đoàn để chuyển hóa và làm nó mất đi. Trong Vườn Giết-xê-ma-ni, Đức Giêsu đã đổ mồ hôi máu của Con Chiên Thiên Chúa để chuộc tội trần gian.

Đức Giêsu là con Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tội lỗi trần gian. Đó là tâm điểm ý nghĩa của Ki-tô giáo về sự cứu chuộc, đó cũng là biểu tượng tối hậu của đức tin chúng ta. Có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng luôn luôn trong cùng một nghĩa: “Cuộc thương khó của Đức Giêsu chuộc tội chúng ta.” “Máu Con Chiên Thiên Chúa rửa sạch chúng ta.” “Chúng ta được chữa lành nhờ các lằn roi hằn trên lưng Người.” “Cuộc thương khó của Đức Giêsu đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa.” Nhưng, chúng ta được rửa sạch và hòa giải với Thiên Chúa qua máu Đức Giêsu như thế nào?

Kinh Thánh tả lại điều này bằng ẩn dụ và một cách chính xác, chúng ta phải cẩn thận, để không hiểu các ẩn dụ này theo nghĩa đen. Đức Giêsu không chết đi để Thiên Chúa nguôi giận, cơn giận mà loài người không thể làm gì để xoa dịu. Thiên Chúa cũng không cần phải thấy con Ngài chịu đau khủng khiếp và bị làm nhục mới tha tội cho chúng ta. Thiên Chúa không cần xoa dịu; có thể cho là như vậy, mặc dầu, đó là những gì ẩn dụ và biểu tượng về “Con Chiên Thiên Chúa” gợi ý lên.

Đức Giêsu mang lấy tội lỗi, không phải để xoa dịu một cơn gịân nào đó của Thiên Chúa, nhưng để ngấm trong lòng và chuyển hóa tội lỗi chúng ta. Bằng cách nào?

Thời xa xưa có những lễ “hiến tế”, các nghi thức phụng vụ nhắm mục đích đưa căng thẳng ra khỏi cộng đồng. Khi các căng thẳng trong cộng đoàn tăng cao, các cộng đoàn họp nhau lại và một cách tượng trưng, họ khoác các căng thẳng này trên một con dê hay một con chiên, rồi họ đuổi chúng chạy vào rừng hoang để chết. Theo quan niệm đó, “vật tế thần” sẽ đem căng thẳng và tội lỗi ra khỏi cộng đoàn, bằng cách rời cộng đoàn và chết đi.

Đức Giêsu cũng làm như vậy, nhưng khác một cách tận căn. Người lấy tội lỗi và căng thẳng ra khỏi cộng đoàn, không phải bằng cách chết và ra đi, nhưng bằng cách để ngấm trong lòng và chuyển hóa chúng thành một điều khác. Người làm như thế nào?

Một hình ảnh (đáng buồn, có tính máy móc hơn là có hệ thống) có thể hữu ích ở đây: Đức Giêsu lấy đi tội lỗi chúng ta giống như nguyên tắc bình lọc nước. Bình lọc lấy nước dơ vào, giữ nước dơ lại, lọc để nước sạch chảy ra. Chuyển hóa chứ không phải chuyển giao.

Chúng ta thấy điều này nơi Đức Giêsu: Như chiếc bình lọc, Người làm thanh khiết cuộc đời: Người nhận vào căm thù, giữ nó, chuyển hóa và gởi trả lại tình yêu; Người nhận vào cay đắng, giữ nó, chuyển hóa và gởi trả lại nhân từ; Người nhận vào lăng nhục, giữ nó, chuyển hóa và gởi trả lại phúc lành; Người nhận vào xáo trộn, giữ nó, chuyển hóa và gởi trả lại trật tự; Người nhận vào sợ hãi, giữ nó, chuyển hóa và gởi trả lại tự do; Người nhận vào ghen ghét, giữ nó, chuyển hóa và gởi trả lại yêu thương; Người nhận vào xa-tăng và sát nhân, giữ lại, chuyển hóa và gởi trả lại Thiên Chúa và lòng bao dung. Đức Giêsu lấy đi tội lỗi thế gian cũng một cách giống như bình lọc nước, lấy chất dơ khỏi nước, ngấm vào, giữ lại đồ dơ và chỉ để nước sạch chảy ra.

Thật không dễ để làm. Làm mà không oán giận, có nghĩa là đổ mồ hôi máu, máu của một người yêu thương. Như một người đang yêu, Đức Giêsu đi vào Vườn Giết-xê-ma-ni, và như chúng ta, Người cũng bị lôi kéo về phía cay đắng, sợ hãi, oán giận, và tự vệ. Như chúng ta, Người cũng bị ám ảnh theo chiều hướng này. Nhưng đây là tâm điểm, ở vườn Giết-xê-ma-ni, Người đã chuyển hóa chứ không chuyển giao các cám dỗ này. Đức Giêsu không đơn giản đáp trả theo kiểu để năng lượng tự tuôn chảy qua con người mình. Người làm tinh khiết năng lượng ấy, ngấm các căng thẳng và tội lỗi vào lòng. Người trả bằng máu, sự sống và danh tiếng của mình. Người đã phải đổ mồ hôi máu, nhưng trong vườn Giết-xê-ma-ni, người đích thực là người yêu đánh đổi tất cả để đem lại hòa hợp cho căng thẳng, thứ tha cho tội lỗi, ngấm hết vào mình căng thẳng và tội lỗi, đem chúng ra khỏi cộng đoàn. Mồ hôi máu đổ ra theo cách như vậy thật sự đã rửa sạch tội lỗi con người.

Và, Đức Giêsu làm như vậy không phải để chúng ta khâm phục nhưng để chúng ta noi gương Ngài. Vườn Giết-xê-ma-ni mời gọi mỗi người chúng ta bước vào và lớn mạnh lên. Mời gọi chúng ta đổ mồ hôi máu của người yêu, ngấm giữ vào lòng, làm thanh khiết, chuyển hóa căng thẳng và tội lỗi chứ không đơn giản chuyển chúng đi.


Fr. Ron Rolheiser, OMI
(The Agony in the Garden - The Place of Transformation, 2004)

Thursday, April 14, 2011

37. Chúa không phán xét ai



Có một câu hỏi lâu đời về lòng nhân lành của Chúa, nó lâu đời cũng như tôn giáo chúng ta: Làm sao một Thiên Chúa toàn thiện lại có thể đày người nào đó xuống hỏa ngục muôn đời? Làm sao Thiên Chúa đầy yêu thương và độ lượng mà lại có hình phạt đời đời?

Đó là một câu hỏi sai. Thiên Chúa không đày bất cứ ai xuống hỏa ngục và Thiên Chúa cũng không tạo ra hình phạt đời đời. Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống và lựa chọn thuộc về chúng ta để đón nhận hay từ chối nó.

Đức Giê-su nói cho chúng ta biết Thiên Chúa không phán xét bất cứ ai. Chỉ có chúng ta mới phán xét nhau. Thiên Chúa không tạo ra hỏa ngục và  cũng không đày ai xuống hỏa ngục. Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa hỏa ngục không tồn tại và nó không phải là một khả thể cho chúng ta. Điều cốt yếu là cách Đức Giê-su giải thích chuyện này ở đây:

Thiên Chúa ban sự sống của Ngài cho thế gian và chúng ta có thể chọn lựa sự sống này hoặc từ chối nó. Chúng ta tự phán xét mình trong hành động chọn lựa đó. Nếu chọn sự sống, thì cuối cùng chúng ta sẽ chọn thiên đàng. Nếu từ chối sự sống, thì chúng ta chết mà vẫn ở bên ngoài sự sống và cuối cùng đó là hỏa ngục. Nhưng sự lựa chọn thuộc về chúng ta, Thiên Chúa không đày chúng ta đi đâu cả. Hơn thế, hỏa ngục không phải là một hình phạt tích cực Thiên Chúa tạo ra để bắt chúng ta phải chịu. Hỏa ngục là sự vắng mặt của một điều gì đó, ấy là, sống trong lòng sự sống dành sẵn cho chúng ta.

Nói lên tất cả điều này không phải là để nói không có hỏa ngục, hoặc hỏa ngục không phải là một khả thể có thật cho mọi người. Hỏa ngục là có thật, nhưng nó không phải là một hình phạt tích cực Chúa tạo ra để thực thi công lý, trừng trị cái ác hay trừng phạt người cứng lòng không biết ăn năn khi phạm lỗi. Hỏa ngục là sự vắng mặt của sự sống, tình yêu, sự tha thứ, cộng đoàn, và Chúa không đày bất cứ ai vào đó cả. Chúng ta có thể kết thúc ở đó, bên ngoài tình yêu và cộng đoàn, nhưng đó là sự lựa chọn của chúng ta nếu chúng ta, một cách đáng trách, đã từ chối nó khi tất cả đều dành sẵn cho chúng ta ngay trong cuộc đời này. Hỏa ngục, như John Shea từng nói, không bao giờ là một sự bất ngờ phục chờ ai đó đang hạnh phúc, nó là biểu hiện rõ ràng nhất của một cuộc đời từ chối tình yêu, sự tha thứ, và cộng đoàn.

Triết gia Jean Paul Sartre từng phát biểu câu nói nổi tiếng, hỏa ngục chính là người khác. Nói ngược lại cũng đúng. Hỏa ngục là những gì chúng ta trải qua khi đặt bản thân mình lên trên cộng đoàn đời sống với người khác. Đời sống con người có nghĩa là chia sẻ đời sống, chia sẻ hiện hữu, góp phần của mình vào trong cộng đoàn đời sống, đời sống bao gồm Ba Ngôi Một Thể.

Kinh Thánh nói, Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở lại trong tình yêu, thì người ấy ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng ở lại trong họ. Trong bối cảnh này, không nên hiểu tình yêu như kiểu tình yêu lãng mạn. Bản văn không nói ai rơi vào lưới tình thì đều ở lại trong Thiên Chúa (dù điều này cũng có thể đúng). Thật sự, bản văn này có thể được nói như sau: Thiên Chúa là hiện thân của sự chia sẻ, và ai chia sẻ đời sống mình với người khác, người ấy sống trong sự sống của Thiên Chúa.

Nhưng ngược lại cũng đúng. Khi chúng ta không chia sẻ đời sống mình với người khác, chúng ta kết thúc đời sống mình ở bên ngoài sự sống. Đó, thật sự, chính là hỏa ngục.

Hỏa ngục là gì? Các hình ảnh trong Kinh Thánh nói về hỏa ngục không cố định và liên tục thay đổi. Chung chung có khuynh hướng hình dung hỏa ngục là lửa, lò lửa cháy không bao giờ tắt, nhưng đó chỉ là một hình ảnh, và nó không nhất thiết là hình ảnh nổi trội trong Kinh Thánh. Trong các điều được nói đến, Kinh Thánh nói về hỏa ngục như là nơi gánh chịu cơn phẫn nộ của Thiên Chúa, như ở ngoài tiệc cưới và lễ hội, nơi tang tóc, khóc lóc và nghiến răng, nơi giống như thung lũng Gehenna (chứa rác bên ngoài thành Giêrusalem), nơi bị giòi bọ rúc rỉa, như là lửa, như hụt buổi dạ tiệc, như ở bên ngoài nước trời, như sống với quả tim đau đớn bị bóp méo, như đang hụt sự sống. Cuối cùng, tất cả những hình ảnh này đều nhắm đến một điểm chung: Hỏa ngục là nỗi đau và cay đắng, thứ lửa, chúng ta phải chịu khi, một cách đáng trách, chúng ta đã đặt bản thân mình ra ngoài cộng đoàn đời sống. Và luôn luôn nó do tự mình làm khổ mình. Thiên Chúa không bao giờ áp đặt nó trên chúng ta cả. Thiên Chúa không ban sự chết chóc và đày ai xuống hỏa ngục.

Khi Đức Giê-su nói về Thiên Chúa, Người không bao giờ nói Thiên Chúa ban cả sự sống và sự chết, Người chỉ nói Thiên Chúa ban sự sống mà thôi. Sự chết có nhiều nguyên nhân, từ việc nói dối, hợp lý hóa, cay chua gắt gỏng, cứng lòng, và hỏa ngục. Khi nói Thiên Chúa không tạo ra hỏa ngục và đày bất cứ ai vào đó thì không có ý phủ nhận sự tồn tại của cái ác, tội lỗi và nguy cơ của hình phạt đời đời, điều này chỉ nhằm xác định các căn nguyên và làm rõ đó là ai, ai hay phán xét, ai hay kết án. Thiên Chúa thì không; Ngài không tạo ra hỏa ngục cũng không đày ai vào đó cả. Chúng ta thì làm cả hai.

Như Đức Giê-su nói trong Phúc Âm thánh Gio-an: Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin vào Người Con thì người đó không bị luận phạt; ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Và đây là án phạt, sự sáng đã đến với thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng. Ta không phán xét ai cả.
Người không cần phán xét.


Fr Ron Rolheiser, OMI
(God Judges No One, 2009)

Wednesday, April 13, 2011

36. Sự giàu có của Thiên Chúa là lời mời gọi cho lòng quảng đại



Mặt trời hào phóng một cách lạ thường, không giây phút nào là nó không chiếu sáng nhất.

Các nhà khoa học cho biết, bên trong mặt trời, cứ mỗi giây có một tỉ lệ tương đương với bốn triệu con voi được chuyển hóa thành ánh sáng, một thứ quà tặng chỉ biết cho đi, không bao giờ biết nhận lại. Mặt trời vẫn tiếp tục đốt cháy nó. Nếu sự hào phóng này ngừng lại, đương nhiên tất cả năng lượng sẽ mất nguồn cung cấp, mọi sự sẽ chết và bất động. Chúng ta, và mọi vật trên hành tinh này, sống được là nhờ sự hào phóng của mặt trời.

Trong sự hào phóng này, mặt trời phản ánh sự giàu có của Thiên Chúa, một sự hào phóng mời gọi chúng ta cũng trở nên hào phóng theo, mở rộng quả tim, dấn thân nhiều hơn để tận hiến bản thân mình trong công việc hy sinh, để làm chứng nhân cho sự giàu có của Thiên Chúa.

Nhưng điều này không dễ. Một cách bản năng, chúng ta có khuynh hướng tự nhiên là tích trử và để dành để cho cuộc sống được an toàn. Bản chất chúng ta là sợ và sống chùm với nhau. Vì vậy, dù nghèo hay không, chúng ta đều có cảm nhận thiếu thốn, luôn luôn sợ mình không có đủ, và vì không có đủ, chúng ta phải cẩn thận khi cho, chúng ta không thể quá hào phóng được.

Nhưng Thiên Chúa làm ngược lại với điều tự nhiên trên. Thiên Chúa rộng rãi, giàu có, quảng đại, và hào phóng vượt ra ngoài những lo sợ và tưởng tượng nhỏ nhoi của chúng ta. Vũ trụ của Thiên Chúa quá phong phú và phi thường. Kích thước của vũ trụ, chỉ tính riêng về những gì con người đã khám phá, cũng đã là không tưởng tượng nổi. Quá dồi dào và hào phóng là đặc nét của Thiên Chúa.

Chúng ta thấy điều này qua dụ ngôn Người gieo giống trong Kinh Thánh: Người gieo giống, đại diện cho Thiên Chúa, người mà Đức Giê-su mô tả, không phải là người  tính toán, gieo cẩn thận và chỉ gieo ở những mảnh đất màu mỡ. Người gieo giống này gieo không phân biệt nơi gieo: bên vệ đường, trong bụi gai, trên đá, nơi mảnh đất cằn cỗi, cũng như nơi tốt tươi. Hình như ông quá dư hạt giống nên có thể nói cách gieo giống của ông xuất phát từ tính hào phóng của sự dồi dào hơn là tính thận trọng của sự thiếu thốn. Chúng ta cũng thấy sự giàu có này trong dụ ngôn người làm công vườn nho, gia chủ, đại diện cho Thiên Chúa, trả công đồng đều cho tất cả người làm công, không phân biệt ai trước ai sau. Thiên Chúa, như chúng ta biết, giàu có vô hạn và không bao giờ tính toán chi ly trong việc ban phát.

Thiên Chúa cũng rộng rãi và quảng đại khi tha thứ, như chúng ta thấy trong các phúc âm. Trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, người cha tha cho người con hoang đàng, ông cho vượt lên sự giàu có của ông, nhiều khi sự giàu có này làm cho nhân phẩm bị mất vì quá tính toán cho mình. Chúng ta cũng thấy sự rộng rãi này nơi Đức Giê-su khi Người tha thứ cho kẻ hành hình cũng như tất cả những ai bỏ Người trong cuộc thương khó.

Qua những gì chúng ta thấy, Thiên Chúa quá giàu tình yêu, quá giàu lòng thương xót nên Ngài mới phung phí, quá quảng đại, không tính toán, không kỳ thị, dám nhận bất trắc, và có quả tim rộng lượng vượt quá trí tưởng tượng chúng ta.

Và đó là lời mời gọi: Để có được một khái niệm về sự giàu có của Thiên Chúa, một giàu có dám nhận bất trắc, chúng ta cần có một quả tim luôn rộng mở và một lòng quảng đại vượt lên trên bản năng sợ hãi, bản năng làm chúng ta nghĩ rằng, chỉ vì chúng ta không có đủ nên cần tính toán chi ly nhiều hơn.

Trong tất cả các phúc âm, phúc âm thánh Lu-ca chứa đựng một trong những sứ điệp mạnh mẽ nhất về đức công bình (cứ sáu hàng là có một thách thức trực tiếp với đức công bình đối với người nghèo) nhưng tuy thế, trong phúc âm thánh Lu-ca, Đức Giê-su vẫn nhắc nhở về mối hiểm nguy của giàu có, Ngài không bao giờ lên án sự giàu có hay người giàu có. Hơn thế Người phân biệt sự giàu có quảng đại và giàu có bủn xỉn. Người giàu có quảng đại tốt lành vì họ tỏa ra và hiện thân cho sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa trong khi  người giàu có bủn xỉn không tốt bởi vì họ đưa ra một hình ảnh sai lầm về sự giàu có, quảng đại, và quả tim rộng lớn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta đong đấu nào sẽ nhận lại đấu đó. Điểm chính là nói lên rằng không khí chúng ta thở ra là không khí chúng ta hít vào. Điều đó không chỉ đúng về mặt sinh thái học mà nó còn đúng cho mọi khía cạnh chung của cuộc sống. Nếu chúng ta thở ra sự bủn xỉn, chúng ta sẽ hít vào sự bủn xỉn; nếu chúng ta thở ra tính nhỏ nhen, chúng ta sẽ hít vào tính nhỏ nhen; nếu chúng ta thở ra sự gắt gỏng cay chua, chúng ta cũng sẽ hít vào sự gắt gỏng cay chua đó; và nếu chúng ta thở ra sự thiếu thốn khiến chúng ta tính toán và dè dặt, thì sự toán tính và dè dặt đó sẽ là không khí chúng ta hít vào. Nhưng, nếu nhận thức được sự giàu có của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thở ra lòng quảng đại và bao dung, và khi đó chúng ta sẽ hít  không khí quảng đại và bao dung vào. Chúng ta hít vào những gì chúng ta thở ra.

Tôi chưa bao giờ gặp ai thật sự có lòng quảng đại mà họ lại không nói rằng, lúc nào họ cũng nhận được nhiều hơn cho. Và tôi cũng chưa bao giờ gặp một ai thật sự có quả tim rộng rãi mà lại sống trong cảm nhận mình thiếu thốn. Để có lòng quảng đại và quả tim rộng mở thì trước hết chúng ta phải tin vào sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa.

Nhờ sự giàu có của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được ánh sáng mặt trời, một vũ trụ lớn lao hào phóng vượt sức tưởng tượng của loài người. Đó không phải chỉ là thử thách cho tinh thần và trí tưởng tượng, nhưng đặc biệt là thử thách cho quả tim, để nó trở nên giàu có và quảng đại hơn.

Fr Ron Rolheiser, OMI
(The Abundance of God as an Invitation to Generosity, 2009)

Tuesday, April 12, 2011

35. Cầu nguyện khi không có hứng

Đa số chúng ta đều cảm thấy khó để cầu nguyện. Chúng ta muốn cầu nguyện, quyết tâm cầu nguyện, nhưng lại không bao giờ khắc phục hoàn toàn để thật sự đi vào cầu nguyện. Tại sao?

Không hẳn là vì chúng ta không thành tâm, thiếu tích cực, hay lười biếng, nhưng chỉ vì rằng lúc nào chúng ta cũng quá mệt mỏi, quá sao nhãng, quá hoạt động, quá phân tâm về mặt xúc cảm, quá giận dữ, quá bận rộn, hay tự cảm thấy mình xa cách Thiên Chúa để không thể cầm lòng cầu nguyện. Chúng ta cũng có quá nhiều  chứng nhức đầu và nỗi đau buồn. Vì thế, về nhà sau một ngày dài làm việc, đơn giản chúng ta không còn sức lực để cầu nguyện, thay vào đó là gọi điện cho bạn, xem truyền hình, nghỉ ngơi, dọn dẹp nhà cửa, hay làm bất kỳ cái gì để xua đi mệt mỏi và áp lực từ cuộc sống, trừ cầu nguyện.

Bằng cách nào để chúng ta có thể cầu nguyện khi tâm thân thường xuyên bị áp lực và quá tải như vậy?

Bằng cách hiểu cầu nguyện thật sự là gì. Một trong số những định nghĩa xưa nhất thì cầu nguyện có nghĩa là, “nâng tâm hồn và quả tim mình lên với Chúa.” Điều đó nghe có vẻ đơn giản nhưng không dễ để làm được.

Tại sao?

Bởi vì chúng ta có quan niệm sai lầm về định nghĩa đó. Chúng ta nuôi dưỡng trong vô thức ý tưởng rằng chúng ta chỉ có thể cầu nguyện khi không còn bị sao nhãng, không còn bị quấy rầy, không còn giận dữ, không còn bị phân tâm bởi cảm xúc và nhục dục, và không còn bị kẹt trong  chứng nhức đầu và nỗi đau buồn để tâm hồn thiết tha, cung kính chú tâm vào Thiên Chúa. Khi đó, Thiên Chúa như người cha chỉ muốn nhìn cách cư xử tốt nhất của con mình và chúng ta chỉ có thể đi vào trong sự hiện diện của Ngài khi chúng ta không có gì để giấu, trong tâm trạng hân hoan, và có thể ca tụng và suy tôn Ngài. Bởi vì chúng ta không hiểu cầu nguyện thật sự là gì, nên chúng ta cư xử với Thiên Chúa như một nhân vật có uy quyền hay cuộc viếng thăm một người có quyền cao chức trọng, như một ai đó chúng ta không thể nói thật lòng mình. Chúng ta không nói cho Ngài những gì sẽ diễn ra thật sự trong đời mình nhưng là những gì sẽ diễn ra một cách lý tưởng mà thôi. Chúng ta nói với Thiên Chúa những gì chúng ta nghĩ Ngài muốn nghe.

Vì lý do này, chúng ta cảm thấy khó để cầu nguyện dù với bất kỳ quy tắc nào. Những gì xảy ra là: Chúng ta cầu nguyện riêng hay cầu nguyện chung trong nhà thờ, chúng ta mang tâm trạng mệt mỏi, chán nản, lắm lúc như đang còn giận dữ ai đó nữa. Chúng ta đến với cầu nguyện mang theo chứng nhức đầu và đau buồn của mình và rồi cố gắng che giấu những gì chúng ta thật sự đang cảm nhận, thay vào đó là quay sang ca tụng, suy tôn, và cám ơn Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều đó không mang lại kết quả! Quả tim và khối óc của chúng ta (vì chúng quá bận tâm với những chuyện khác, những vấn đề thật sự của chúng ta) bị sao nhãng và nghĩ rằng những gì chúng ta đang làm – đang cố gắng cầu nguyện – không phải là một điều gì đó đúng đắn và vì thế chúng ta trì hoãn việc cầu nguyện lại.

Nhưng vấn đề không phải việc cầu nguyện là không thành thật hay khoảnh khắc đó là không đúng đắn. Vấn đề là chúng ta không “nâng tâm hồn và quả tim mình lên với Thiên Chúa.” Lúc đó chúng ta đang cố gắng nâng những ý nghĩ và cảm xúc không phải của mình lên cùng Thiên Chúa. Sự cầu nguyện khi đó không xuất phát từ quả tim và tâm hồn của chính chúng ta.

Nếu chúng ta nghiêm túc cho rằng cầu nguyện là “nâng tâm hồn và quả tim mình lên với Chúa” thì mọi cảm xúc và ý nghĩ khi đó đều là lối vào hợp lệ và thích hợp với cầu nguyện, dù cho ý nghĩ và cảm xúc đó có vẻ thiếu tôn kính, không linh thiêng, có tính nhục dục, hay giận dữ đến mấy đi nữa. Đơn giản, nếu bạn đi vào cầu nguyện và bạn đang cảm thấy chán nản, hãy cầu nguyện về sự chán nản; nếu bạn đang giận dữ, hãy cầu nguyện về sự giận dữ, nếu bạn đang bị nhục dục làm bận tâm, hãy cầu nguyện về sự bận tâm đó; nếu bạn đang cảm thấy muốn giết người, hãy cầu nguyện về nó, và nếu bạn đang cảm thấy hăng hái và muốn ca tụng và cám ơn Thiên Chúa, hãy cầu nguyện về sự ca tụng. Mọi ý nghĩ và cảm xúc đều là lối vào thích hợp với cầu nguyện. Điều quan trọng là chúng ta hãy cầu nguyện những gì chúng ta có bên trong và đừng cầu nguyện những gì chúng ta nghĩ là Thiên Chúa muốn nghe mình.

Điều đó giải thích tại sao các bài Thánh Vịnh rất thích hợp cho sự cầu nguyện và cũng giải thích lý do tại sao Giáo Hội đã chọn các bài Thánh Vịnh làm cơ sở cho hầu hết các giờ phụng vụ. Các bài Thánh Vịnh chuyển tải mọi cảm xúc, từ ca tụng Thiên Chúa bằng mọi hơi thở đến cầu chúc cho quân thù của mình bị đá ném trúng. Từ sự ca tụng đến kẻ giết người – với tất cả mọi chuyện trong đó! Đó là biên độ cho ý nghĩ và cảm xúc của chúng ta. Các bài Thánh Vịnh là cái bàn phím để chúng ta có thể chơi mọi ca khúc trong cuộc sống của mình – và các ca khúc này không phải lúc nào cũng là hạnh phúc và ngoan đạo. Các bài Thánh Vịnh cho chúng ta một ngôn ngữ thích đáng giúp chúng ta nâng tâm hồn và quả tim mình lên Thiên Chúa.

Không may là chúng ta thường hiểu sai việc cầu nguyện, chúng ta xa cách cầu nguyện khi cần đến cầu nguyện nhất. Chúng ta chỉ cố gắng cầu nguyện khi cảm thấy mình tốt, tập trung, sùng kính, và xứng đáng với việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta lại không cố gắng cầu nguyện khi chúng ta cần cầu nguyện nhất, khi cảm thấy mình không tốt, thiếu tôn kính, tội lỗi, bị phân tâm bởi cảm xúc và nhục dục, không xứng đáng với việc cầu nguyện.
Nhưng tất cả những cảm xúc này đều có thể là lối vào để cầu nguyện. Dù đang bị nhức đầu và đau buồn, chúng ta cũng cứ nâng chúng lên cùng Thiên Chúa.


Fr Ron Rolheiser, OMI
(Praying When We Don’t Feel Like It, 2007)

Monday, April 11, 2011

34. CĂN PHÒNG TỐI

Một lần Đức Giêsu vào thành nọ, Thánh Luca thuật rằng dân chúng tuốn ra đón Chúa đông lắm, trong số đó có một người tên Dakêu, có địa vị và giàu có cũng muốn gặp gỡ Chúa (Lc 19:1-10). Đứng đầu những người thu thuế thì chắc phải lớn tuổi rồi. Chỉ phải cái tội là ông lùn quá, mà đám người thì lại quá đông nên ông không thể thấy được Chúa. Thiên hạ không ưa gì ông vì ông là trưởng ban thu thuế, là tay sai của những kẻ đô hộ La-mã để áp bức dân nghèo phải đóng thuế nặng nề, nên chẳng ai thèm nhường lối cho ông đến gần lối đi của Đức Giêsu.

Nếu lối đi của Chúa gần nhà, ông có thể đứng trên ban-công nhìn xuống thì chắc sẽ thấy rõ Chúa. Tiếc nỗi con đường Chúa đi ngang qua không gần nhà ông, ông nhìn đám đông mà không biết có cách nào khả thi để có thể thấy được diện mạo của Chúa. Ông đảo mắt nhìn quanh và bắt gặp một cây sung đang có một đám con nít đang leo lên, chúng nó ngồi trên cây như bầy khỉ. Vì quá ao ước được thấy diện mạo của Đức Giêsu, ông đã làm một điều mà chẳng ai dám nghĩ đến. Đó là leo lên cây. Ông đã leo lên cây thì cũng có nghĩa là ông đã phải cởi bỏ thân phận của một người có địa vị, giàu có, và lớn tuổi, vì chẳng ai có thế giá mà lại leo cây ngồi như khỉ, chẳng có người giàu nào mà lại leo cây, và cũng chẳng có ông già nào mà lại leo cây. Ông đã bỏ lại phía dưới cây “cái áo” địa vị, giàu sang và tuổi tác, thì ông mới leo lên cây được. Vì lòng ao ước gặp Chúa, ông đã lướt lên trên những gò bó của phong tục, tập quán, và lề luật, vượt lên trên những tiếng xầm xì chung quanh. Ông ngồi cùng đám con nít như con khỉ già giữa bầy khỉ con đong đu trên cây.

Đức Giêsu vào thành tới ngay chỗ cây sung ấy và Ngài nhìn lên cây, mọi người nhìn lên cây theo và họ ngạc nhiên khi thấy có một con khỉ già mà họ chẳng ưa đang ngồi trên đó. Đức Giêsu ngắm nhìn Dakêu ở trên cây khi ông đang mặc chiếc áo truyền thống Do-thái, loại áo Anba/Alb trắng mà linh mục mặc ở trong cùng với áo Lễ mặc bên ngoài. Đứng ở dưới nhìn lên Dakêu trong lớp áo phùng phình đó, chắc hẳn Đức Giêsu thấy hết cả bên ngoài lẫn bên trong con người Dakêu. Dakêu trở nên trần trụi trước Nhan Chúa và ông đã để cho Chúa ngắm ông trọn vẹn. Ông bắt gặp một ánh mắt mà đã lâu lắm rồi ông không được thấy – Ánh mắt nhân từ trái tim giàu lòng thương xót.

“Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Từ kinh ngạc đến ngỡ ngàng, một vị tiên tri, một đấng thánh, mà lại đến nhà một tên tội lỗi như mình sao! Dakêu mừng rỡ, hạnh phúc cùng tột. Ông sung sướng đến độ dám cho cả nửa gia tài của ông. Ông mời Chúa Giêsu về nhà, ngôi nhà rộng lớn có đến mấy chục phòng với đầy đủ tiện nghi và hàng tá đầy tớ. Dakêu dẫn Chúa đi một vòng giới thiệu căn nhà rộng lớn của mình, nào là phòng ăn, phòng ngủ, phòng đọc sách, phòng kế toán, phòng thể dục, phòng tắm với bể bơi rộng lớn,… khi đến trước một căn phòng lớn kín mít mà lại có ổ khóa to tướng, Dakêu ngại ngùng: “Thưa Thầy, phòng này là phòng riêng của tôi, từ xưa tới nay chỉ có một mình tôi được vào, con tôi, vợ tôi cũng không được vào.” “Thế ông có cho phép tôi vào không?” Đức Giêsu nhìn Dakêu một cách trìu mến và hỏi. Ngần ngại một chút và rồi Dakêu mở cửa mời Chúa bước vào.

Căn phòng tối đen như mực, nó được thiết kế để không một ánh sáng nào có thể lọt vào, Dakêu thắp một cái đèn dầu để giới thiệu với Chúa: “Trong phòng này có nhiều ngăn lắm, và ngăn nào cũng tối đen như vậy, … đây là ngăn chứa tiền của mà con thu góp được, còn ngăn này thì con đặt tên cho nó là ngăn Ô Nhục, mỗi lần con đến gặp các quan đô-hộ La-mã thì con phải quỵ luỵ, lạy lục van xin, để có thể trông nhờ kẻ quyền hành bảo vệ con, nhiều lúc chúng đối xử với con như con chó của chúng vậy, mỗi lần gặp họ xong thì con về nhà và vào ngay cái ngăn này để giũ bỏ những điều cay đắng bỉ ổi đó ở đây. Còn đây là ngăn Nhục Nhã, mỗi lần đi ra đường là con lại thấy những con mắt nhìn con khinh bỉ, những tiếng xì xầm chửi rủa, con lại về vứt bỏ sự ê chề đó vào cái ngăn này.” Chúa Giêsu ngắm nhìn Dakêu và lắng nghe ông tâm sự, ông cảm thấy Chúa không lên án ông như những người khác nên an tâm, ông đọc được trong ánh mắt của vị khách này lòng thương xót và sự đón nhận, ông tiếp: “Thưa Thầy, còn đây là ngăn Mơ Mộng, mỗi lần bực dọc điều gì hay chán nản, trống rỗng, thì con lại vào đây, con ngồi mơ mộng với những gốc xoài, gốc mít đồi trụy của cõi lòng con. Còn đây là ngăn ‘Giải Quyết’, tuy đôi khi con cũng thấy bất nhân thất đức nhưng vẫn cứ ra lệnh cho bọn đàn em vô loại hành hạ những kẻ không đóng thuế cho con. Con còn nhiều ngăn lắm…” và Dakêu đã dẫn Chúa đến từng ngăn tăm tối của cuộc đời mình.

Đức Giêsu vẫn âm thầm lắng nghe từng lời từ tận đáy lòng của Dakêu, và đây cũng là lần đầu tiên Dakêu dẫn một người vào căn phòng tối tăm của mình và chia sẻ tất cả nỗi lòng buồn vui. Khi Chúa đến viếng thăm, Chúa tha thứ, ủi an, và ban phát bình an và ân sủng. Dakêu mở lòng tới đâu thì bình an và ân sủng của Chúa tràn ngập vào đến đấy. Dakêu rơi lệ sung sướng vì cảm nhận được sự chúc phúc và bình an của Thiên Chúa. Cả đời ông chưa một lần được hạnh phúc ngập tràn như vậy, ông oà khóc sung sướng như em bé trước mặt Chúa. Từ những giọt nước mắt mặc cảm tội lỗi, biến thành những giọt nước mắt của tình thương, ân sủng, và tha thứ.

Ngày hôm nay Thiên Chúa cũng nói với mỗi người chúng ta: “Này con, hôm nay Cha phải ở lại nhà con!” Tôi có đón Chúa đến nhà tôi không? Tôi có dẫn Chúa đi thăm từng ngõ ngách căn nhà tâm hồn của tôi không? Đâu là những căn phòng tối đen của lòng tôi mà lâu nay chỉ có một mình tôi vào thôi, mà ngày hôm nay Chúa muốn tôi cho phép Ngài cùng vào với tôi? Cái gì cản trở tôi không cho Chúa vào những căn phòng ngập tràn bóng tối đó?

***

Lạy Chúa, căn phòng tối của con có nhiều ngăn lắm, nào là ngăn tiền tài, ngăn chức vụ quyền lực, ngăn địa vị danh giá. Con lại còn có những ngăn hận thù, ngăn dục vọng, ngăn thành kiến, ngăn chỉ trích, ngăn tự ti mặc cảm, ngăn sợ hãi, ngăn đam mê lướt web, chat, games online, email, di động, ngăn phim bộ, ngăn shopping, ngăn mộng mơ, ngăn thất bại, ngăn tuyệt vọng. Con có một cái ngăn con kể cho Chúa nghe nhưng xin Chúa đừng cười nghe, đó là ngăn khóc lóc. Khi tức tối, uất hận với ai điều gì thì con lại vào đây ngồi xụt xịt một mình trong một góc cô đơn tăm tối. Có những cái ngăn tối lắm, con chẳng dám cho ai vào xem bao giờ, và con đã chưa một lần thắp đèn lên vì nó dơ bẩn và hôi hám.

Lạy Chúa, xin hãy đến, xin Chúa đừng chỉ đến nhà con, mà xin Chúa nhắc con mời Chúa đến căn phòng tối nhiều ngăn của con, để con cho Chúa đồng cảm với con, để con chia sẻ với Chúa nỗi bất lực vì con không có sức để tự thoát ra khỏi vũng bùn nhơ, để con cảm nhận ánh mắt hiền từ và tha thứ của Chúa. Xin Chúa ban Thần Khí Chúa cho con để con tin tưởng, can đảm và an tâm mở hết các ngăn trong căn phòng tối của tâm hồn con ra, để ánh sáng sự sống và sự sống lại tràn vào tâm hồn con, để con được sống hạnh phúc và tự do làm con Thiên Chúa. Amen.


Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.
July 18, 2009

Sunday, April 10, 2011

33. Nước Mắt

...
Nói về nước mắt cũng khó như nói về tình yêu. Nói về nước mắt cũng khó như nói về đau khổ.

Tình yêu và đau khổ là những ngôn ngữ phải hiểu bằng con tim hơn bằng lời. Và nước mắt cũng thế.

Làm sao có thể tả được nỗi khổ của người vợ trẻ nghe tin chồng tử trận từ miền xa. Làm sao có thể nói được nỗi đau của cuộc tình phản bội. Làm thế nào để diễn tả được nỗi đắng của người con gái gặp trầm luân trên biển cả. Ðó là nước mắt và đau khổ. Không có ngôn ngữ nào nói về những dòng nước mắt đó cho đủ.

Nước mắt của đau khổ tự nó là một ngôn ngữ. Một thứ ngôn ngữ không có văn phạm. Vì nước mắt là ngôn ngữ không có văn phạm nên ai cũng có thể đọc được. Người giàu khóc. Kẻ nghèo cũng thế. Người trí thức, kẻ quê mùa, ai cũng có lúc khóc. Nước mắt và đau khổ là ngôn ngữ chung. Người từ phương đông cũng có thể gặp kẻ từ phương tây, trong ngôn ngữ ấy. Mình có nước mắt và thấy người khác có nước mắt.

Nước mắt là ngôn ngữ chung. Nhưng đọc được không có nghĩa là hiểu được. Từ đọc được đến hiểu được vẫn còn là chặng đường dài. Dòng nước mắt này không có văn phạm để đọc, nhưng lại có văn phạm để hiểu. Văn phạm để hiểu những dòng nước mắt của đau khổ là con tim. Nhìn một người khóc, tôi biết đó là nước mắt. Tôi đã đọc được. Nhưng tôi có hiểu dòng nước mắt đó không lại là một chuyện khác. Ðã bao lần tôi thấy người khóc, nhưng tôi vẫn bình thản. Ðã bao lần tôi thấy nước mắt chảy, nhưng chẳng có nghĩa gì đối với tôi. Cũng có những lần tôi không muốn nhìn nước mắt. Nước mắt đau khổ là ngôn ngữ chẳng cần học cũng nhìn thấy, nhưng chẳng bao giờ hiểu được nếu không học. Ðể hiểu dòng nước mắt đó phải học bằng con tim của yêu thương và tâm hồn của chia sẻ.

Nỗi đau đã nói bằng nước mắt, thì để hiểu cũng cần trả lời bằng nước mắt. Nhưng người ta chẳng trả lời được bằng nước mắt nếu người ta không học yêu thương và chia sẻ. Ðây là bài học khó nhất trong đời.

Nhận ra nước mắt đau thương ở chung quanh mình đã là điều khó. Học để chấp nhận dòng nước mắt ấy và để dòng nước mắt ấy hòa vào cuộc sống của mình lại càng khó hơn. "Nơi điều này mà ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng mình vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em" (1Yn 3,16). Khi Thiên Chúa yêu, Ngài yêu đến cùng. Bởi đó, yêu thương là bài học  không có ngày ra trường, nó giai giẳng cả đời. Bài học này không có chứng chỉ xác nhận, vì có ai chỉ yêu thương một lần là xong?

Một người khóc với nỗi đau của tôi, tôi thấy bớt khổ hơn khi họ chỉ nói về nỗi đau của tôi. Họ chẳng nói gì, chỉ im lặng thôi, nhưng nhìn trong đôi mắt cảm thông của họ, tôi có can đảm. Họ không cho tôi gì cả, nhưng tôi thấy mình lãnh nhận. Dòng nước mắt của tôi là yếu đuối thì dòng nước mắt của họ lại là sức mạnh cho tôi. Ðó là sự nhiệm mầu của nước mắt, và ở chỗ đó, nước mắt là ơn thánh. Trong thơ gởi tín hữu Roma, Thánh Phaolô viết: "Vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu" (Rom 12,15). Lời nói thì dễ, quà tặng cũng có thể mua. Khóc thì thật khó, vì nước mắt là mức độ rung cảm sâu xa nhất của con tim, và cũng chính vì chỗ đó, nước mắt là hồng ân. Ðể hiểu được nước mắt của người khác và nói với họ bằng nước mắt của mình là một con đường tử nạn Jerusalem. Người đứng xem thì nhiều, nhưng kẻ khóc thì chẳng có bao nhiêu.

Nước mắt ở đâu?

Trong trại tị nạn, tôi thấy có những tâm hồn lạc lõng, không người thân, không tiền bạc. Biển chiều là những nỗi vắng khôn nguôi. Họ ngồi một mình, im lặng, nhìn về biển mà khóc. Trong khi đó, có người mang theo được vàng bạc, có thân nhân, họ bình thản bên quán cà phê, mơ ngày đi sắm đồ ở Hong Kong, Bangkok. Họ chẳng thể hiểu được những dòng nước mắt kia. Vì muốn hiểu, họ phải mời dòng nước mắt đó một ly cà phê, một tấm áo mặc. "Kẻ nào có của đời này và thấy anh em nó lâm phải túng thiếu, lại khóa lòng dạ lại đối với anh em nó thì làm sao lòng mến của Thiên Chúa lưu lại được trong nó? (1Yn 3,17). Hai ngàn năm trước, họ đã chẳng hiểu mồ hôi và nước mắt Chúa Kitô trên đường tử nạn vì họ là kẻ đứng bên lề để xem.

Nước mắt ở đâu?

Ở trong những tâm hồn tan nát. Có những vết thương đau đớn của một đời người. Những người thiếu nữ gặp trầm luân trên biển cả. Họ đau khổ. Trong khi đó, có người đem những chuyện đó để mua vui. Họ chẳng thể hiểu được dòng nước mắt kia. Vì hai ngàn năm trước họ cũng đã lột trần Ðức Kitô và cười với nhau. "Khi chế diễu Ngài rồi, thì họ cởi chiếc nhung y đi, cho Ngài mặc lại áo của Ngài, rồi họ điệu Ngài đi mà đóng đinh trên thập giá" (Mt 27,31). Ðóng đinh kẻ khác cũng là thú vui của một số người.

Nước mắt ở đâu?

Có những tâm hồn lầm lỡ, chỉ vì yếu đuối mà chua xót. Họ muốn quên đi cái quá khứ bất hạnh ấy. Nhưng có kẻ biết chuyện lại đem nói cho người khác hay để tỏ ra sự hiểu biết của mình. Họ chẳng thể hiểu được nỗi đắng cay kia. Vì, hai ngàn năm trước họ đã muốn ném đá người đàn bà ngoại tình (Yn 8,5). Ðối với một số người, nói những khuyết điểm của kẻ khác là hình thức để nói mình trong sạch. Họ chỉ thua cuộc khi bị phơi trần trước mặt Ðức Kitô.

Hai ngàn năm trước là thế, hôm nay cũng vậy, tôi thấy nhiều người khóc, nhưng tâm hồn tôi chẳng rung cảm. Làm sao có thể rung cảm, làm sao có thể hiểu được khi tôi chỉ đứng xem người vác thập giá chứ tôi không vác thập giá.

** *

Trong tình yêu cũng có nước mắt. Mai Ðệ Liên đã khóc: "Ðứng đàng sau phía chân Ngài, bà khóc nức nở" (Lc 7,38). Phêrô đã khóc vì chối Thầy: "Và Phêrô nhớ lại lời Ðức Kitô đã báo: Trước khi gà gáy, ngươi đã chối Ta ba lần. Và ra ngoài ông khóc lóc thảm thiết" (Mt 26,75). Phêrô không nói gì với Chúa khi Chúa nhìn, nhưng chỉ khóc. Mai Ðệ Liên cũng vậy. Họ chẳng nói nhưng nước mắt đã nói tất cả. Ðó là những giọt nước mắt sám hối. Những giọt nước mắt khi biết mình lỗi lầm bao giờ cũng có giá trị cứu rỗi.

Eva đã lỗi phạm. Khi Chúa hỏi thì Eva đổ lỗi cho con rắn. Bà đã không khóc.

Adong đã lỗi phạm, Khi Chúa hỏi thì Adong đổ tội cho Eva. Ông đã không khóc.

Tội kế đến xẩy ra trong gia đình đầu tiên của nhân loại là Cain giết em mình. Khi Chúa hỏi em mình đâu, Cain trả lời: "Tôi không biết! Tôi là người giữ nó à?" (Kn 4,9). Chàng đã không khóc.

Ôi! Những dòng nước mắt đã hiếm hoi làm sao. Vì thuở ban đầu đã thiếu nước mắt ăn năn, nên bây giờ nước mắt gian truân ở khắp chốn.

Nước mắt đã làm động lòng Thiên Chúa. Nước mắt xóa nhòa quá khứ. Nước mắt mở cửa tương lai. Nước mắt làm hạnh phúc phục sinh.

Có những dòng nước mắt hiếm hoi bao nhiêu, thì dường như, cũng có những dòng nước mắt dư thừa bấy nhiêu. Có người khóc vì mất một số của cải, nhưng lại chẳng khóc khi mất Chúa. Có người khóc vì bị ngăn cản một ước mơ không chính đáng, nhưng lại chẳng khóc khi bỏ lỡ một giấc mơ chính đáng đã đi qua mà không thực hiện.

Lạy Chúa, để hiểu dòng nước mắt đau khổ, con phải học thứ văn phạm của ngôn ngữ đó, đó là một trái tim yêu thương, một cõi lòng có Chúa ngự, một tâm hồn không đứng xem Chúa vác thập giá mà xuống đường vác thập giá với Chúa.

Nước mắt có cần không?

Khóc là một ân huệ. Những trái tim bằng gỗ không thể khóc. Những tâm hồn lạnh lùng cũng chẳng thể rung cảm. Xin hãy dạy con biết khóc như Phêrô, đừng chai đá như Cain. Nước mắt có thể tha thứ mọi lỗi lầm của con. Và, Nước Trời đã mở cửa cho con cả hai lối. Con có thể vào một cách anh hùng như các thánh tử đạo, con cũng có thể vào bằng tiếng khóc như Mai Ðệ Liên.


Lm Nguyễn Trọng Tước
(trích Nước Mắt và Hạnh Phúc, 1989)

Saturday, April 9, 2011

32. THẬP GIÁ

“Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cor 1; 18)

Chúa Giêsu đã đi, và Người vẫn còn đi. Chúa Giêsu đi từ làng này sang làng khác, và trên đường đi, Người gặp những người nghèo khổ. Người gặp những người hành khất, những người mù lòa, những người bệnh tật, những người khóc lóc, và những người mất hết hy vọng. Người vẫn rất gần gũi thế gian. Người cảm nhận cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm. Người biết về những cây cỏ đang héo khô tàn tạ, đất sỏi đá khô cằn, những bụi cây gai góc, những thân cây trơ trụi, những cánh hoa ngoài đồng, và những vụ gặt được mùa. Người biết vì Người đi quá nhiều và cảm thấy nơi chính thân thể Người sự khắc nghiệt và sức sống của bốn mùa.

Người đã lắng nghe những kẻ đang cùng đi với Người, và Người dùng quyền của một người bạn đồng hành chân chính mà trò truyện với họ trên đường. Người nghiêm nghị nhưng rất nhân từ, trực tính nhưng rất hòa nhã, đòi hỏi nhưng rất dễ tha thứ, điều tra nhưng bằng một cách rất kính trọng. Người cắt sâu nhưng với đôi tay của thầy thuốc…

Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với thế gian mà Người đi trên đó. Người quan sát sức mạnh của thiên nhiên, Người học từ chúng, dạy về chúng, và tỏ cho ta biết rằng Thiên Chúa của Sự Tạo Dựng cũng là Thiên Chúa Ðấng gửi Người xuống loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, cho người mù được thấy, và trả tự do cho những kẻ bị cầm tù.

Những người nghèo đang đi trên đường, qua sa mạc và những nơi ghồ ghề trên thế gian này nhắc cho tôi phải khiêm nhường - một chữ gốc từ tiếng La-tinh là “humus”, có nghĩa là bùn đất. Tôi vẫn phải sống gần bùn đất, thế gian. Tôi thường ngước nhìn những vầng mây và mơ mộng về một thế giới tươi đẹp hơn. Nhưng giấc mơ của tôi sẽ không bao giờ thành tựu trừ khi tôi ngoảnh mặt lại nhìn kỹ thế gian và tất cả những người đang đi trên đường, bước đi mệt nhọc và kêu mời tôi đồng hành với họ.

Ðồng hành với người nghèo nghĩa là gì? Nghĩa là nhận ra sự nghèo nàn của chính tôi: sự tan nát tận đáy lòng tôi, sự mệt nhọc của tôi, sự bất lực của tôi, và bản tính hay chết của tôi. Chính ở đây mà tôi liên hệ với thế gian; chính nhờ vậy mà tôi thực sự khiêm nhường. Phải, chính vì thế mà tôi trở nên thân mật với tất cả những người đang cùng đi trên đường trần thế, và khám phá ra rằng, tôi cũng được yêu như một con người rất mỏng manh và đáng quý.

Trước khi Chúa Giêsu chịu thương khó, “khi Người biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, và Người sẽ trở về cùng Thiên Chúa, Người lấy khăn, và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ” (Ga 13:3-5). Ngôi Lời làm người để rửa đôi bàn chân mệt mỏi của tôi. Người chạm vào tôi ngay chính chỗ tôi chạm vào đất, chỗ mà trái đất này nối liền với thân thể tôi mà vươn lên trời. Người quỳ xuống, cầm lấy chân tôi trong tay Người và rửa. Rồi người ngước mắt lên nhìn tôi, và khi mắt Người và mắt tôi chạm nhau, Người nói: “Con có hiểu điều Thầy vừa làm cho con không? Nếu Thầy, là Chúa và Chủ của con, mà Thầy đã rửa chân con, thì con phải rửa chân cho anh chị em con” (Ga 13:12-14).

Khi tôi đớn đau lê bước trên cuộc hành trình dài về phía cây thập giá, tôi phải ngừng dọc đường để rửa chân cho những người lân cận tôi. Khi tôi quỳ trước anh chị em tôi, rửa chân họ, và nhìn vào mắt họ, tôi khám phá ra rằng vì có anh chị em tôi đồng hành với tôi, mà tôi mới có thể tiến bước trên cuộc hành trình của tôi.


Trích từ Walk With Jesus, của Lm Henri Nouwen

31. Theo Chúa Giêsu, theo nghĩa đen hay nghĩa bóng?

Môi trường làm việc của tôi ở trong giới nhà thờ, phần lớn những người tôi gặp ở đó là trung thực, nhiệt tâm, và đa số, họ toát ra một đức tin sâu đậm. Đa số những người đến nhà thờ không phải là người giả nhân giả nghĩa. Nhưng điều tôi thật sự thấy lo âu trong giới này là quá nhiều người trong số chúng ta lại có thể chua chát, giận dữ, nhỏ mọn, xét nét, đặc biệt trong chính các giá trị mà chúng ta coi trọng nhất.

Chính cha Henri Nouwen là người đầu tiên nêu lên điều đó. Cha buồn rầu nhận xét trong số những người thật sự giận dữ, chua chát và bị ý thức hệ lôi đi mà cha biết đến thì cha đã gặp trong giới nhà thờ và ở cương vị mục vụ. Trong giới nhà thờ, đôi khi dường như ai cũng giận dữ về một điều gì đó. Hơn nữa, ở môi trường này, thật quá dễ dàng biện lý cho nỗi tức giận của mình nhân danh lời tiên tri, như là một nỗi đam mê lành mạnh đối với chân lý và đạo đức.

Lô-gic của chuyện đó là: Vì tôi tha thiết quan ngại tới một vấn đề đạo đức, giáo hội hay công lý quan trọng, nên tôi không có lỗi nếu ở chừng mực nào đó tôi rối trí, tức giận, tự cho là ưu tú, và xét nét tiêu cực, bởi vì tôi có thể biện lý rằng sự nghiệp về mặt đạo đức hay tín điều của tôi quan trọng tới mức có thể biện minh cho sự nhỏ mọn của mình: Tôi cần phải tức giận và khắc nghiệt như thế này bởi vì chân lý đó quan trọng đến thế cơ mà!

Và thế là chúng ta biện minh cho nỗi tức giận của mình bằng cách khoác cho nó một cái vẻ tiên tri, trong lòng tự cho mình là chiến binh của Chúa, của chân lý và đạo đức khi mà thực ra chúng ta phần lớn chỉ đang khó khăn chống chọi với những vết thương, nỗi bất an và sợ hãi của chính mình. Vì thế, chúng ta thường nhìn vào người khác, thậm chí cả toàn bộ nhà thờ gồm những con người tha thiết cố gắng sống phúc âm, thay vì thấy các anh chị em cũng đang gắng gỗ, như chúng ta, để theo bước Giê-su, chúng ta lại nhìn thấy “những người lầm lỗi”, “những kẻ tương đối chủ nghĩa nguy hiểm”, “những kẻ ngoại đạo thời đại mới”, “những tên dị hợm tôn giáo”, hoặc là - lúc chúng ta độ lượng hơn - “những linh hồn lầm lạc tội nghiệp”. Nhưng không bao giờ chúng ta nhìn xem kiểu xét nét như vậy đang nói lên điều gì về chính mình, về chính tình trạng sức khỏe tinh thần của mình và việc theo chân Giê-su của chính mình.

Xin đừng hiểu nhầm ý tôi: Chân lý thì không tương đối, các vấn đề luân lý là quan trọng, và sự thật đúng đắn và luân lý đích thực, cũng giống như các vương quốc bị bao vây liên miên, cần được bảo vệ. Không phải mọi lời phán xét luân lý nào cũng đồng đều, các nhà thờ cũng vậy.

Nhưng điều chân lý đó không phủ đầu mọi thứ khác, cũng không là lý do để chúng ta biện lý cho nỗi tức giận của mình. Chúng ta phải bảo vệ chân lý, bảo vệ những ai không thể tự vệ, và kiên trung trong những truyền thống của nhà thờ chúng ta. Nhưng những sự thật và luân lý đúng đắn không nhất thiết làm chúng ta trở thành tông đồ của Giê-su. Điều gì khiến chúng ta trở thành tông đồ của Giê-su?

Những gì khiến chúng ta trở thành vị tông đồ chân chính của Giê-su là sống trong Tinh thần của Người, trong Thần Khí, và đây không phải là điều gì trừu tượng hay mơ hồ. Nếu có ai đó muốn tìm một công thức duy nhất để xác định ai là Ki-tô hữu ai không, người đó có thể đọc Thư gởi cho tín hữu thành Ga-lát, chương 5. Trong đó, Thánh Phao-lô bảo chúng ta rằng chúng ta có thể sống căn cứ theo tinh thần của xác phàm hay Thần Khí.

Chúng ta sống theo tinh thần của xác phàm khi chúng ta sống trong giận dữ, chua chát, xét nét láng giềng của mình, với óc bè phái, và không vị tha. Khi đời sống chúng ta có những tính chất như vậy thì chúng ta không nên tự lừa dối rằng chúng ta đang sống trong Thần Khí.

Ngược lại, chúng ta sống trong Thần Khí khi đời sống chúng ta nổi bật lên bằng lòng bác ái, vui vẻ, bình an, thiện tâm, chịu đựng, bền lòng, hiền lành và khiết tịnh. Nếu đời sống chúng ta không có những tính chất đó, thì chúng ta không nên tự huyễn rằng mình đang ở bên trong Tinh thần của Chúa, bất kể niềm đam mê đối với sự thật, tín điều hay công lý của chúng ta là gì.

Có thể nói như thế này là tàn nhẫn, nhưng không nói ra thì còn tàn nhẫn hơn, nhưng đôi khi tôi lại thấy lòng khoan dung, niềm vui, bình an, kiên nhẫn, thiện tâm và hiền lành trong số những người theo thuyết Nhất vị luận, Thời đại Mới, hay Baha’i (mà thường bị các giáo hội khác phán xét là không có chính kiến rõ ràng và chẳng đại diện cho điều gì cả) còn nhiều hơn so với những người nào trong số chúng ta đứng lên hô hào đanh thép cho những vấn đề đạo đức và giáo hội nào đó nhưng thường là hẹp hòi và chua chát trong suy nghĩ của mình. Nếu được lựa chọn người hàng xóm, hay sâu sắc hơn, lựa chọn người mà tôi muốn được chia sẻ đời đời, đôi khi tôi khá bị giằng co: ai là bạn đồng hành đức tin thật sự của tôi? Con người quá khích giận dữ đang xung trận vì Giê-su hay vì chính nghĩa đó, hay linh hồn hiền lành hơn mà bị dán nhãn hiệu không có chính kiến rõ ràng hay “thời đại mới”?

Xét cho cùng, ai là Ki-tô hữu thật sự?

Tôi tin rằng, chúng ta cần tự phê bình nhiều hơn về nỗi tức giận, những phán xét khắt khe, tính nhỏ mọn, sự bài xích, và sự khinh thị của chúng ta đối với những con đường luân lý và giáo hội khác. Như T.S. Eliot từng nói: Cám dỗ cuối cùng và là tội bội tín ghê gớm nhất là làm một điều đúng vì một lý do sai lầm. Chúng ta có thể có sự thật và những luân lý đúng đắn đứng về phía mình. Nhưng nỗi giận dữ và những phán xét khắc nghiệt của chúng ta đối với những ai không cùng chia sẻ sự thật và luân lý với mình hoàn toàn có thể khiến chúng ta đứng ngoài ngôi nhà của Cha, giống như người anh trai trong câu chuyện người con hoang đàng, cay chua trước lòng nhân từ của Chúa lẫn cay chua với những ai đang được nhận lòng nhân từ đó.



Fr. Ron Rolheiser, OMI
(Following Jesus - According to the Letter or the Spirit?, 2011)

Thursday, April 7, 2011

30. Nét phong phú của huyền nhiệm Thiên Chúa

" Trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu !" (Ga 8:58)

G.K. Chesterton từng nói một trong những lý do ông tin vào Ki-tô giáo là vì Ki-tô giáo có đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Ki-tô giáo do người thường dựng nên thì ở trọng tâm của nó hẳn đã không có cái khái niệm khó có thể nắm bắt hay giải thích này được: đó là ý niệm Thiên Chúa tồn tại như nhất thể nhưng lại ở trong ba bản vị.

Chúng ta hiểu Ba Ngôi như thế nào đây? Chúng ta không hiểu được! Thiên Chúa, theo định nghĩa, là không thể nào mô tả được, vượt ra ngoài nhận thức, ngoài sức tưởng tượng, không thể diễn tả được bằng lời. Đức tin của ki-tô hữu vào Thiên Chúa Ba Ngôi càng cho thấy huyền nhiệm về Thiên Chúa phong phú như thế nào, và trải nghiệm của chúng ta về Thiên Chúa luôn luôn phong phú hơn nhận thức và lời lẽ của chúng ta có về Thiên Chúa.

Đây là chuyện hiển nhiên trong lịch sử tôn giáo. Ngay từ thuở hồng hoang, con người đã luôn luôn trải nghiệm Thượng đế và đã tôn thờ Thượng đế. Tuy nhiên, cũng ngay từ thuở ban đầu đó, con người đã có cảm giác rằng Thượng đế là quá sức phong phú và hết-sức-vượt-ra-ngoài bất kỳ một dạng phân loại duy nhất nào, nên không một khái niệm nào của con người có thể phản ảnh hết được. Vì vậy, đa số người cổ xưa theo thuyết đa thần. Họ tin rằng có nhiều vị nam thần và nữ thần. Họ có trải nghiệm về năng lượng thiêng liêng và nhu cầu tán tụng năng lượng thiêng liêng đó trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, có các vị thần nam nữ theo từng lĩnh vực. Vì vậy, họ có các nam thần và nữ thần dành cho từng ước muốn và hoàn cảnh cụ thể, từ chiến tranh, trồng trọt mùa màng, tình dục, tới việc hiểu được vì sao cha không ban phước lành cho con…, luôn luôn có một vị nam thần và nữ thần nào đó để người ta hướng tới.

Đôi khi họ tin vào một thượng đế tối cao duy nhất, là người thống trị hết thảy các vị thần thấp hơn, nhưng họ cũng cảm nhận rằng năng lượng thiêng liêng này là một thực tại quá phong phú tới mức không thể bó hẹp trong một hiện thể duy nhất. Họ cũng tin rằng đôi khi các vị thần gây chiến với nhau. Các vị nam thần và nữ thần cũng thỉnh thoảng dính tới cuộc sống của người trần, dàn xếp những thỏa thuận đặc biệt với người trần, yêu đương, và thậm chí đôi khi còn có con với người trần.

Nhiều trong số những câu chuyện huyền thoại mạnh nhất từng được kể xuất phát từ trải nghiệm về tính chất phong phú vô biên của Thượng đế và sự bất lực của người xưa trong việc diễn đạt theo bất kỳ một nhận thức nào về Thượng đế và hoạt động của Thượng đế. Dù đa thần giáo và các câu chuyện huyền thoại thời cổ đại có nói gì đi nữa về các vị thần nam nữ, thì những cách hành đạo thời cổ đại và các tín điều khó tin của chúng đều cho thấy trải nghiệm của con người về Thượng đế quá phong phú, không thể nào biểu đạt hết, vượt ra ngoài sức tưởng tượng và ngôn ngữ quá đơn giản của con người. Người cổ đại tin rằng những trải nghiệm của họ gợi cho biết có nhiều vị thần hiện hữu.

Sau đó xảy ra một chuyển biến hàng loạt: Do Thái giáo, và ngay sau đó là Ki-tô giáo và Hồi giáo đưa ra một tín điều mạnh và rõ ràng rằng chỉ có một Thượng đế duy nhất. Từ đây, tất cả quyền năng và năng lượng thiêng liêng được nhìn nhận là phát sinh từ một nguồn duy nhất, độc thần, Gia-vê, Cha của chúa Giêsu, Allah. Không còn có vị nam thần hay nữ thần nào nữa.

Nhưng từ thời điểm chúa Giêsu phục sinh, các ki-tô hữu bắt đầu đấu tranh với độc thần giáo. Họ tin rằng chỉ còn một Thiên Chúa duy nhất, nhưng trải nghiệm Thiên Chúa của họ đòi hỏi họ tin rằng Thiên Chúa này bằng cách nào đó là “ba”. Nói một cách đơn giản, khi Chúa Giêsu sống lại, các ki-tô hữu lập tức gán thiên tính cho người, nhưng không coi người là Chúa Cha. Chúa Giêsu được hiểu là Thiên Chúa, nhưng một cách nào đó lại khác so với Chúa Cha. Hơn nữa, trong trải nghiệm này, họ lại cảm nhận một năng lượng thiêng liêng thứ ba mà họ không thể nào đồng nhất hoàn toàn với Chúa Giêsu hay Chúa Cha, đó là Chúa Thánh Thần.

Trải nghiệm này khiến họ thắc mắc và đôi khi lúng túng: Họ là những người độc thần giáo, một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Vậy nhưng Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa, và Chúa Thánh Thần cũng vậy. Trải nghiệm của họ về ân sủng và hành động của Thượng đế trên thế giới không tương thích với nhận thức quá đơn giản của họ về độc thần.

Thượng đế là nhất thể, vậy nhưng Thượng đế cách nào đó là ba. Làm sao để dung hợp hai điều này? Các kitô hữu phải mất ba trăm năm, cuối cùng mới tìm ra được một thể thức vinh danh được tính phong phú của trải nghiệm Ki-tô về Thiên Chúa. Công đồng Nicea vào năm 325 đã cho chúng ta thể thức đức tin để chúng ta theo ngày nay: Chỉ cóù một Thiên Chúa trong ba bản vị; trừ việc họ viết thể thức đó bằng tiếng Hy Lạp và từ ngữ trong tiếng đó mang nghĩa đen là Thượng đế là một thực thể trong ba quan hệ hiện hữu.

Thể thức này không giúp chúng ta thấy rõ ràng hoàn toàn. Không thể thức nào có thể nắm bắt thực tại về Thượng đế, bởi lẽ Thượng đế quá phong phú, không thể nào nắm bắt được, thậm chí một nửa cũng không được, dù cho bằng trí tưởng tượng, tư tưởng hay từ ngữ. Thượng đế mà vô thần giáo phủ nhận chính là một Thượng đế qua khái niệm, một Thượng đế bó buộc trong một bức tranh. Rốt cuộc, vô thần giáo ít trung thành với trải nghiệm của con người hơn so với đa thần giáo, vốn cảm nhận một cách đúng đắn hơn về các vị thần, nam thần và nữ thần, ẩn trong từng phiến đá.

Điều này hướng chúng ta đến cái gì?

Sự khiêm nhường. Tất cả chúng ta, tín hữu lẫn vô thần, cần phải khiêm nhường hơn khi nói về Thượng đế. Ý niệm về Thượng đế cần được trải rộng chứ không phải thu hẹp sức tưởng tượng. Trải nghiệm thực sự của chúng ta về Thượng đế, cũng giống như đa thần giáo thời cổ xưa, sẽ luôn luôn lấn át hết mọi khái niệm đơn giản quá mức về Thượng đế. Tạ ơn Chúa vì tính phức tạp vi tế của tín điều Ba Ngôi!

Fr Ron Rolheiser, OMI
(The Richness of the Mystery of God, 2010)

Wednesday, April 6, 2011

29. Bực mình và đời sống thiêng liêng

Văn sĩ Mỹ Stanley Elkin có lần gợi ý “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người có tính bực mình vào nước trời.” Và đúng thiệt.

Một ngạn ngữ Đức nói bạn có thể chết vì bực mình, và tôi ngờ, có không ít người chết vì nó thật. Còn chúng ta thì phải đối diện với nó mà áp huyết cứ tăng lên vùn vụt. Cũng như mấy con muỗi, chúng làm chúng ta bực mình khi đi pic-nic, những con muỗi nho nhỏ không ai muốn mà đến, không đáng kể trong tổng thể bối cảnh, nhưng đủ để lúc đó mất vui.

Cũng vậy với tất cả các cuộc họp mặt gia đình, bạn bè, đám cưới, sinh hoạt giáo xứ, sinh hoạt chung chung trong cuộc sống bình thường. Chúng ta có thể yêu thương và kính trọng sâu xa một người, chia sẻ cùng giá trị với họ, ngay cả sống chết với họ nhưng lại thường xuyên bực mình vì các tật kỳ quái của họ, cách anh tằng hắng giọng, cách chị lúc nào cũng đi trễ, cách anh ngáy vang động, cái tính thích kể chuyện tiếu lâm của anh, cách chị ăn uống ngâm nga chậm rãi, mái tóc lập dị, không chọn áo quần thích hợp, khiếu thẩm âm hơi khác người, không thích đồ ăn Mỹ, ăn xong vứt bừa chén bát vào bồn rửa chén, danh sách còn dài dài… Không có chuyện gì thật sự quan trọng, nhưng, như mấy con muỗi, nó làm cho buổi pic-nic mất vui.

Và đương nhiên còn luật Murphy, luật bi quan cho rằng các bực mình cứ nối tiếp vô tận với tác hại của chúng. Không phải vì các chuyện kỳ quái hay các thói quen xấu nhưng là nó đến không đúng lúc, đúng thì: “Tại sao anh tài xế trước mặt lái chậm như rùa trong lúc tôi sắp trễ cái hẹn quan trọng? Tại sao cô thợ cắt tóc lại chọn đúng lúc tôi sắp có cuộc họp quan trọng ở trường lại chải đầu tóc tôi như ổ quạ? Tại sao bạn đồng nghiệp tôi đau đúng lúc tôi chuẩn bị đi nghỉ hè? Có một nhiễm sắc tố ADN gì đó trong vũ trụ mà mục đích duy nhất của nó là thử thách tính kiên nhẫn và lòng bao dung của chúng ta không? “Luật Murphy” không có trách nhiệm trên các thảm kịch lớn của cuộc sống, nhưng nó có trách nhiệm rất nhiều trên lời nói mà đáng ra chúng ta không được nói trước trẻ con.

Điều buồn cười cho những chuyện bực mình này là chúng không phản ảnh các nét lớn trong cuộc sống, tính tình, giá trị, tình yêu, lòng biết ơn hay ý nghĩa cuộc sống nhưng chúng lại làm mất đi tầm nhìn.

Và vì thế khi chúng ta đi xuống ăn điểm tâm, khi thấy có ai trước đó đã làm đổ sữa trên sàn mà không lau, thế là đủ để chúng ta không thấy mặt trời vừa mọc, rằng chúng ta đang còn sức khỏe và còn sức sống, không còn thấy có bao nhiêu người yêu thương mình, mình có việc tốt để làm, và sắp thưởng thức bữa ăn sáng ngon lành. Một ít giọt sữa đổ, thay vì cám ơn Chúa thì lại kêu trời.

Cũng thế, khi vào phòng tắm, thay cho lời cám ơn vì có được phòng tắm hiện đại thì chúng ta bực mình, ai trước đó đã không để ra ba mươi giây thay cuộn giấy đã hết (“Chắc tôi là người duy nhất trong nhà này biết làm chuyện này!”) Chuyện vớ vẩn đó không phải là chuyện của nhà huyền bí, nhưng đời sống có những chuyện trần thế mà nhà huyền bí phải đối diện.

Chúng ta phải làm gì với các chuyện bực mình này?

Bà Erma Bombeck viết một phiên bản của bà cho đề tài cổ điển: “Nếu Tôi Có Một Đời Sống Để Sống Lại.” Trong đó, bà nói đến rất nhiều lần, trong vài trò làm mẹ, khi các con còn nhỏ, chúng đã đến quấy rầy bà, vẽ dơ tường, làm mất trật tự trong nhà, đến ôm bà với đôi bàn tay nhem nhuốc làm dơ áo đẹp của bà. Bà viết, nếu được làm lại, bà sẽ yêu thương các chuyện quấy rầy này, sẽ không để ý đến chuyện làm dơ bẩn, sẽ đến hôn đứa bé vừa làm dơ áo, vì, rất sớm, chúng sẽ ra đi, sẽ biến mất trong cuộc đời của mình, để lại chỉ là kỷ niệm, hoài niệm những điều tuyệt vời đã từng làm mình bực mình.

Thời gian và khoảng cách, rất sớm, sẽ lấy đi các chuyện quý giá và đến một ngày, chúng ta nhìn lại với tiếc nuối (hy vọng là với chút óc hài hước) cái ly sữa bị đổ trong bếp, cái cuộn giấy chưa thay, và chúng ta sẽ tự hỏi, tại sao lúc đó chúng ta lại bực mình. Và thời gian sẽ đi rất nhanh, rất nhanh khi những người thân yêu đã ra đi hoặc chúng ta chuẩn bị ra đi, khi chỉ còn tình thương mến, chúng ta sẽ nhớ lại các tật kỳ quái của họ, cách anh tằng hắng giọng, cách chị lúc nào cũng đi trễ, cách anh ngáy vang động, cái tính thích kể chuyện tiếu lâm của anh, cách chị ăn uống ngâm nga chậm rãi, mái tóc lập dị, không chọn áo quần thích hợp, khiếu thẩm âm hơi khác người, không thích đồ ăn Mỹ, và lúc đó, chúng ta thấy thời gian hạnh phúc với nhau, cùng chia sẽ với nhau quá ngắn.


Fr. Ron Rolheiser, OMI
(Irritations and the Spiritual Life, 2004)

Tuesday, April 5, 2011

28. Nhận nỗi đau bằng trái tim

Vào thời gian đau buồn xé ruột, cha Henri Nouwwen đã viết những lời sau trong quyển nhật ký: Thách thức lớn nhất là sống thấu suốt nỗi đau của mình thay vì nghĩ thấu suốt những nỗi đau. Khóc tốt hơn là lo lắng, cảm nhận nỗi đau tốt hơn là tìm hiểu nỗi đau, để chúng bước vào trong thinh lặng của mình tốt hơn là nói về chúng. Lựa chọn mà anh liên tục đối diện là anh đang đưa nỗi đau của mình tới cái đầu hay tới trái tim.

Một phần chúng ta hiểu chính xác điều cha nói, kể cả khi một phần khác của chúng ta tự nhiên sẽ kháng lại lời khuyên của cha: Trong chúng ta có phần không muốn khóc, không muốn cảm thấy nỗi đau, không muốn đưa nỗi đau của chúng ta tới chỗ thinh lặng, và không muốn đem nỗi đau tới trái tim. Và vậy là, thay vào đó, khi đau buồn, chúng ta lại càng lo lắng và ám ảnh hơn, chúng ta gắng gỗ để tìm hiểu, chúng ta nói liên tu bất tận với người khác, và chúng ta cố gắng giải quyết mọi chuyện bằng cái đầu chứ không để bản thân chúng ta đơn giản cảm nhận nỗi đau bằng trái tim. 

Và đó không phải luôn luôn là chuyện không hay. Với tất cả minh triết của nó, lời khuyên của cha Nouwen cần có một vài dè dặt: Quan trọng là chúng ta cũng đưa nỗi đau của mình lên cái đầu. Trái tim và trí óc cần hài hòa với nhau. Nhưng điều cha Nouwen chỉ ra ở đây là điều mà cha, một con người được phú cho sự mẫn cảm phi thường đối với những gì thuộc về trái tim, đã nhận ra chỉ sau khi trải qua cơn buồn đau tan nát, nghĩa là, chúng ta thường dễ dàng đưa mọi chuyện tới cái đầu hơn là tới trái tim, kể cả khi chúng ta nghĩ rằng mình đâu có làm như vậy.

Chúng ta đưa nỗi đau tới cái đầu và chặn lại dòng nước mắt chữa lành trong tim bằng cách phủ nhận, lý luận giải thích, đổ lỗi, không thừa nhận một cách giản dị và trung thực, và không thừa nhận rằng chính mình đang đau đớn, chính mình bất lực, chính mình yếu đuối, chính mình không phù hợp.

Và tất cả chúng ta đều có rất nhiều dịp làm như vậy: Càng hiểu rõ ràng và nhạy cảm thì chúng ta lại càng bị các nỗi đau hành hạ. Càng trung thực bao nhiêu thì chúng ta càng nhận thức rõ bấy nhiêu về những giới hạn và tính chất không phù hợp của chính bản thân mình. Và càng hào hiệp và thanh khiết bao nhiêu thì chúng ta càng nhận thức rõ về tội lỗi và các phản bội của chúng ta.

Vì vậy lời khuyên của cha Nouwen chứa một thách thức lành mạnh: Khi chúng ta suy sụp vì đau buồn, chúng ta không nên phủ nhận nỗi đau đó, phủ nhận sức mạnh quái ác của nó, hay phủ nhận việc chúng ta bất lực trước nó. Làm như vậy là mạo hiểm biến mình thành chai cứng và cay đắng. Nhưng nếu chúng ta trao cho cơn đau đớn quặn thắt vị trí trung thực của nó, chúng sẽ khơi dòng nước mắt làm cho con tim mềm lại và giãn ra. Sẽ có ích nếu chúng ta nhớ rằng nước mắt là nước muối, cùng một chất với nước của đại dương ban sơ nơi chúng ta khởi thủy. Nước mắt kết nối chúng ta với nguồn gốc của mình và để cho dòng nước ban sơ của sự sống đó lại một lần nữa chảy trong huyết quản chúng ta.

Hơn nữa, khi đưa nỗi đau đến trái tim, khi trung thực thừa nhận sự yếu đuối và bất lực của mình, thì cuối cùng Chúa mới có thể bắt đầu truyền sức mạnh cho chúng ta. Tại sao? Bởi vì chỉ khi chúng ta đã bị suy sụp trong cảnh bất lực hoàn toàn, chỉ khi cuối cùng chúng ta đã ngã quỵ, thì Chúa mới có thể phái thiên thần xuống tiếp sức cho chúng ta, giống như Chúa đã phái thiên thần xuống tiếp sức cho Giê-su trong cơn thống khổ trong vườn Giết-sê-ma-ni.

Một đêm nọ, trước khi bị giết vài tháng, Martin Luther King nhận được một cú điện thoại đe dọa ám sát. Trước đó ông cũng đã từng bị điện thoại như vậy, nhưng vào đêm đó, nó khiến ông hoảng sợ và cảm thấy suy yếu tận xương tủy. Mọi nỗi hoảng sợ ập đến với ông cùng một lúc. Đây là những dòng ông đã viết kể lại chuyện diễn ra tiếp theo đó:

Tôi ra khỏi giường và bắt đầu đi lại trong nhà. Cuối cùng tôi vào bếp hâm bình cà phê. Tôi đã sắp ngã quỵ. Đặt tách cà phê trước mặt mà không hề đụng vào, tôi cố gắng nghĩ tới cách làm sao thoát ra khỏi tình cảnh này mà không tỏ ra hèn nhát. Trong trạng thái kiệt sức này, khi tất cả dũng khí của tôi đã tan biến, tôi quyết định đem các vấn đề ra bày tỏ với Chúa. Tay ôm đầu, tôi quỳ xuống trước cái bàn trong bếp và cầu nguyện to lên. Những từ tôi nói với Chúa vào giữa đêm đó vẫn còn sống động trong tâm trí tôi:

Con ở đây với một lập trường mà con tin là đúng. Nhưng giờ đây con đang hoảng sợ. Mọi người đang trông chờ con lãnh đạo mà nếu đứng trước họ con  không còn sức mạnh và dũng cảm, thì họ cũng sẽ lung lay. Con nay đang kiệt cùng sức lực. Con không còn gì. Con đã tới lúc không thể nào một mình đối diện được nữa.” Vào giây phút đó, tôi trực nhận sự hiện diện của Đấng Thiêng Liêng như thể trước đó chưa bao giờ tôi từng trực nhận Người.

Trevor Herriot nói, chỉ sau khi hoang mạc đã tàn phá chúng ta, thì thiên thần mới đến và tiếp sức cho chúng ta. Đó là lý do tại sao tốt hơn chúng ta nên cảm nhận nỗi đau của mình hơn là tìm hiểu chúng, tốt hơn là khóc thay vì lo lắng.

Fr. Ron Rolheiser, OMI
(Taking Pain to the Heart, 2010)

Monday, April 4, 2011

27. GIÊSU - Ngài là ai ?

 “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31)

Hơn 2000 năm trôi qua – câu hỏi này vẫn còn mang tính thời sự.

Nó vẫn là câu hỏi mở cho mỗi chúng ta. Có lẽ sẽ có một rừng câu trả lời về Đức Giêsu. Thật vậy, đã có rất nhiều tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng như trên màn ảnh – tất cả đều đặt vấn đề về Ngài. Chẳng hạn như nhà văn Aimatov trong tác phẩm “Đoạn đầu đài” đã nói lên những cảm nghĩ và trăn trở của mình về Đức Giêsu và về cây thập tự của Ngài. Mel Gibson với bộ phim “The Passion of Christ” đã gây nhức nhối trong lòng nhiều khán giả. Cũng không thể quên nhà văn Dan Brown với sự cộng tác đắc lực của đạo diễn Row Howard đã cho ra đời bộ phim “The Da Vinci Code” gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo. Tuy nhiên, hình ảnh Đức Giêsu – qua những tác phẩm trên dẫu có hay và lôi cuốn – vẫn chưa phải là Đức Giêsu đích thực của lịch sử, của lòng tin, của Tin Mừng.

Chuyện kể lại rằng :Trong một buổi cầu nguyện, một người đàn bà Mỹ với giọng Ðức còn nặng đã chia sẻ một câu chuyện sau:

Bà là một thiếu nữ Do Thái bị giam trong một trại tập trung Ðức Quốc Xã trong thời đệ nhị thế chiến. Câu chuyện của bà không khác bao nhiêu so với những nỗi đau khủng khiếp của những tù nhân trong các trại tập trung này. Sau nhiều tháng bị lạm dụng và đói khát, người thiếu nữ Do Thái chợt nhận thức được rằng, bao lâu còn chút sức khỏe cô phải tìm cách trốn thoát khỏi trại bằng mọi giá.

Vừa tốt nghiệp trung hoc, cô thấy nhiều phụ nữ chỉ hơn cô vài tuổi nhưng trông chẳng khác nào các cụ già. Ðêm đào thoát, cô đã qua được những chặng đầu rất thành công. Chặng gay go cuối cùng là phải leo qua hàng rào kẽm gai, nhưng cô chỉ còn cách hàng rào kẽm gai vài bước thì người lính trực đã phát giác ra cô. Anh chĩa súng vào người cô để cô dừng lại. Máu me đã chảy lai láng từ đầu gối cô, cô khóc sướt mướt khi biết rằng cô không còn chút hy vọng nào để trốn thoát.

Nhưng trước sự ngạc nhiên của cô, cô nghe người lính Ðức Quốc xã gọi tên cô: "Eli, có phải cô không?"

Không thể tưởng tượng được, cô nhìn thẳng vào mặt người lính, nhận ra anh là Rodge, người bạn học rất thân của cô. Họ đã chia sẻ cho nhau biết bao nhiêu ước mơ và khát vọng. Nhưng giờ đây vì chiến tranh, hai người đang ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau. Cô nài nỉ người lính Ðức Quốc Xã: “Rodge, anh giết tôi đi, tôi không còn một lý do nào để sống nữa, tôi đã mất tất cả hy vọng rồi”.

Nhưng anh nói với cô: "Eli, đừng nói thế, bao lâu mình biết mình đang sống cho ai thì đó là lý do để sống còn.  Tôi sẽ giúp cô trốn thoát, tôi sẽ canh chừng cho đến khi cô leo qua hàng rào kẽm gai, nhưng cô có chịu hứa với tôi một điều không ?"

Ngươì thiếu nữ nghi ngờ, nhưng nhìn thẳng vào mắt người thanh niên, cô hiểu rằng anh rất thành thực.

Anh nói với cô: "Xin cô hứa với tôi là khi cô được tự do, cô sẽ liên tục tự mình hỏi mình một câu hỏi cho đến khi có ai đó trả lời cho cô nghe. Câu hỏi đó là: Tại sao Chúa Giêsu Kitô làm cho cuộc đời đáng sống? Cô hứa với tôi nghe Eli, Ngài là lý do duy nhất để chúng ta sống. Cô hãy hứa với tôi điều đó cho đến khi cô tìm được câu trả lời !" 

Cô gái hầu như la lớn:  “Vâng, tôi xin hứa”.

Nhưng khi cô vừa leo qua hàng rào kẽm gai, cô cảm thấy có lỗi, cô tự nghĩ lẽ ra mình không nên hứa bất cứ điều gì để thoát ra khỏi điạ ngục này.. Khi cô vừa nhảy qua được bên bờ tự do, cô nghe được nhiều tiếng súng nổ, vừa chạy vừa nhìn lại cô cứ tưởng rằng người thanh niên đã đổi ý nên bắn theo cô. Nhưng không, cô thấy những người lính Ðức khác chạy đến chỗ của Rodge và khi biết rằng anh ta đã để cho cô đào thoát, họ đã nã súng vào người anh. Cô hiểu rằng, Rodge đã chết cho cô để cô được biết Chúa Giêsu.

Từ đó cô không ngừng tự hỏi: Giêsu là ai mà có thể khiến cho người khác sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để cô được biết Ngài?

***
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)


(sưu tầm trên mạng)